Đọc lại và suy ngẫm. Sau "Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau" (Hiệp ước Hitler-Stalin hay Ribbentrop - Molotov) là "Nghị định thư bí mật" giữa Liên Xô và Đức thỏa thuận phân chia Ba Lan và thống nhất phân vùng ảnh hưởng đối với các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, Lithuania, Roman. Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan và ngày 17-9-1939, Hồng quân Liên Xô tiến vào miền Đông Ba Lan, hoàn thành việc phân chia lãnh thổ Ba Lan.
"Sự kiện bi thảm Katyn" là vết đen lịch sử trong quan hệ Liên Xô - Ba Lan với 21.857 tù nhân Ba Lan đã bị Liên Xô bí mật sát hại. (Họ phần lớn là tầng lớp tinh hoa, sĩ quan Ba Lan cấp tá trở lên, không đồng chính kiến với Liên Xô). Sự quyết định xử bắn toàn bộ tù binh Ba Lan bị giam giữ do bởi I.V. Stalin, K. Voroshilov, V. Molotov và A.Mikoyan, với sự đồng ý của M.Kalinin, L.Kaganovich, chuẩn y đề nghị của L. Beria, và giao trách nhiệm hoàn tất công việc cho V. Merkulov, B. Kobulov và L.Bashtako. Trong số 21.857 tù nhân Ba Lan có 4.421 bị bắn đầu tiên tại Katyn (vùng Smolensk), kế đến là 3.820 người bị bắn tại trại Starobelsk gần Kharkov, 6.311 người bị bắn tại trại Ostashkov (vùng Kalinin), 7.305 người bị bắn chết trong các nhà tù phía Tây Ukraine và Tây Belorusia.
Nguyễn Thị Mai Hoa, trong tài liệu "Katyn: Giải mã bí ẩn lịch sử", đã đánh giá: "Vẫn chưa có một kết cục cuối cùng cho “vấn đề Katyn” – một kết cục vừa có thể xoa dịu nỗi đau, chữa lành nỗi ám ảnh của thân nhân những người bị thảm sát, lại vừa có thể thỏa mãn được nước Nga hiện đại đang có những tranh luận khác nhau về quá khứ, nhằm cổ vũ cho những giá trị trường tồn, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, phục vụ mục tiêu chấn hưng đất nước, khôi phục vị thế cường quốc. Có lẽ, không có cách nào khác hơn để chia tay với nỗi đau bằng cách dũng cảm nhìn nhận / thừa nhận nó. Và trên hết, không thể đầu cơ lịch sử! Với quá khứ, với lịch sử, luôn cần sự thẳng thắn, công tâm và trung thực".
Tôi đồng tình với ý kiến trên. Và chợt bùi ngùi nhớ ,...
xem tiếp ...
KATYN – GIẢI MÃ BÍ ẨN LỊCH SỬ
Nguyễn Thị Mai Hoa
Trong
những năm tháng tồn tại, Liên Xô đã có không ít bí mật, trong đó, có
những bí mật có khả năng ảnh hưởng đến uy tín và an ninh quốc gia;
vì thế, được che chắn, bảo vệ một cách hết sức cẩn trọng với nỗ lực
của cả hệ thống chính trị. Chỉ sau khi Liên bang Cộng hòa XHCN
Xô-viết sụp đổ, với độ lùi thời gian và dưới tác động của các yếu tố
khách quan, chủ quan, những bí mật đó mới dần được hé lộ. Một trong
những bí mật như vậy có tên gọi “Sự
kiện bi thảm Katyn”.
1- Sự biến mất đầy bí ẩn
của những tù binh Ba Lan
Cho
đến mùa Hè năm 1939, I.V.
Stalin có đầy đủ lý do để nghi ngờ Pháp và Anh không thực sự muốn
liên minh quân sự với Liên Xô. Việc Ba Lan từ chối cho phép Hồng
quân đóng trên đất Ba Lan trở thành trở ngại chính cho việc phòng
thủ của Liên Xô; việc hình thành liên minh Nga-Anh-Pháp bảo vệ Ba
Lan khó thành hiện thực… những diễn biến đó khiến lãnh đạo Liên Xô
ngả sang đề nghị an ninh của Hitler. Ngày 23-08-1939, Ngoại trưởng
V.M. Molotov đại diện cho Liên Xô và Ngoại trưởng J.V.Ribbentrop -
đại diện cho nước Đức Quốc xã ký kết Hiệp ước không xâm
lược lẫn nhau (còn được biết đến dưới cái tên Molotov–Ribbentrop hay
Hiệp ước Hitler-Stalin) kèm với một Nghị định thư bí mật. Ngoài việc
cam kết kiềm chế không tấn công lẫn nhau và giữ thái độ trung lập
trong trường hợp một trong hai bên trở thành mục tiêu những hành
động quân sự của bên thứ ba bất kỳ, Liên Xô và Đức còn thống nhất
phân vùng ảnh hưởng đối với các nước Phần Lan, Estonia, Latvia,
Lithuania, Roman; đồng thời, thỏa thuận phân chia Ba Lan. Ngày
1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan và ngày 17-9-1939, Hồng quân Liên Xô
tiến vào miền Đông Ba Lan, việc phân chia lãnh thổ của Ba Lan giữa
Liên Xô và Đức được hoàn thành – điều đó cũng có nghĩa là cần “thiết
lập những trật tự nhất định” tại Ba Lan. Bắt đầu từ thời điểm đó,
những sĩ quan Ba Lan bất hợp tác với Liên Xô, những cảnh sát, hiến
binh, điệp viên, chủ xưởng, chủ đất, viên chức chính quyền cũ, thậm
chí cả những người tị nạn, dân thường Ba Lan… được chuyển đến giam
giữ tại các trại đặc biệt ở vùng Ostashkov, Kozielsk và Starobilsk
(Liên Xô), song không được hưởng những quy chế Công ước Geneva đối
với tù binh.
Một
khoảng thời gian sau đó, những tù binh này bỗng bặt tin,“biến mất”
một cách bí ẩn, thân nhân không còn nhận được tin tức của họ, thư
từ, quà, bưu phẩm gửi cho các tù binh đều bị chuyển trả lại. Mọi nỗ
lực tìm kiếm thông tin về các tù binh, về nơi họ bị giam giữ đều rơi
vào vô vọng.
Tháng 11-1941, trong dịp tiếp kiến I.V.Stalin, Đại sứ Ba Lan
Stanislaw Kot đã hỏi về số phận những tù nhân Ba Lan, song
I.V.Stalin lảng tránh trả lời bằng cách thay đổi chủ đề câu chuyện.
Tháng 12-1941, một lần nữa, Tướng Wladislaw Anders
-
Tổng tư
lệnh Quân đội Ba Lan
quay trở lại vấn đề trên, song I.V.Stalin một mực khăng khăng:
“Những tù binh Ba Lan đã được ân xá hết, có thể do những khó khăn về
phương tiện giao thông, nên họ chưa thể về tới Ba Lan”[1].
Cho tới mùa Xuân năm 1942, số phận các tù nhân Ba Lan là chủ đề của
nhiều cuộc thảo luận giữa chính phủ Liên Xô và Ba Lan. Nhiều
lần, I.V.Stalin
khẳng định dứt khoát:
“Không có bất kỳ một người Ba Lan nào
trong các nhà tù, trại tạm giam của Liên Xô, ngoại trừ những tù hình
sự hoặc những tội phạm có dính líu đến phát-xít Đức”[2].
Thậm chí, có lần
I.V.Stalin còn
nói
rằng, số tù binh này đã trốn thoát tới Mông Cổ[3]
(?!).
Ngày
28-1-1942, Bộ trưởng Rachinsky thay mặt chính phủ Ba Lan trao cho
Đại sứ Liên Xô Bogomolov Bản ghi nhớ về
sự
mất tích khó hiểu
của
hàng chục ngàn sĩ quan
và công dân Ba
Lan.
Đáp lại, câu trả lời từ phía Liên Xô vẫn hết
sức mập mờ, mâu thuẫn.
Sự biến mất phi lý của
hàng chục ngàn con người khiến ngày
càng có nhiều tổ chức kháng chiến Ba Lan vào cuộc.
Các nỗ lực điều tra trở nên tích cực
hơn từ năm 1943, có điều, chính quyền Xô-viết – từ đầu đến cuối –
vẫn bác bỏ mọi giả thuyết về trách nhiệm
và sự can dự
của mình.
2- Những bí mật dần phát lộ
Năm 1943,
quân đội Đức Quốc xã
tìm thấy hàng loạt
ngôi mộ tập thể tại rừng Katyn
(cách
thành phố Smolensk 18 km về phía Tây)
sau khi chiếm đóng khu vực này
vào
năm 1941.
Trong những ghi chép
của mình,
Bộ trưởng Tuyên truyền Đức
J. Goebbels gọi sự kiện này là “món quà hiếm có của số phận”, “con
át chủ bài”, đảm bảo cho một chiến dịch tuyên truyền nhiều mặt chống
lại Liên Xô. Quả bom
Katyn “đủ để gây ra một đòn đau đớn,
đánh mạnh vào tâm
tư, tình cảm
của những người dân Ba Lan ủng hộ liên minh chống
phát-xít,
nổ tung vào mối liên kết lỏng lẻo giữa chính phủ Liên Xô và Ba Lan”[4].
Ngày
18-2-1943, người Đức bắt đầu đào các ngôi mộ tập thể, đến ngày
13-4-1943, có chừng 400 thi thể được khai quật. Cũng trong ngày
13-4-1943, Đài phát thanh Berlin đưa tin nước Đức tìm thấy hơn
10.000 thi thể các sĩ quan Ba Lan bị giết tại vùng Katyn, khẳng
định “đây chính là thi thể các sĩ quan Ba Lan bị Liên Xô bắt làm tù
binh khi chiếm đóng miền Đông Ba Lan”[5].
Ngày
17-4-1943, chính phủ Ba Lan lưu vong ra Tuyên bố “lên án mọi
tội ác chống lại các công dân Ba Lan”[6],
yêu cầu chính phủ Liên Xô một lời giải thích về vụ việc này và đề
nghị Hội Chữ
thập đỏ quốc tế tham gia làm rõ vấn đề.
Ngày 21-4-1943, TASS ra Tuyên bố với lập trường cứng rắn:
“Một chiến dịch chống Liên Xô bắt đầu trên báo chí Đức và Ba Lan -
thực tế này cho thấy chiến dịch
bôi nhọ Liên Xô được tiến hành bởi
sự
thỏa thuận
bẩn thỉu
với những kẻ xâm lược Đức”[7].
Trong một động thái quyết liệt hơn, lãnh đạo Liên Xô đã cảnh báo các
đồng minh
Anh và Mỹ
về ý định cắt đứt quan hệ ngoại giao với chính phủ Ba
Lan Sikorski,
với lý
do: “Thời gian gần đây, hành vi của Chính phủ Ba Lan đối với Liên Xô
hoàn toàn bất thường, phá vỡ tất cả các quy tắc và chuẩn mực của
quan hệ đồng minh. Chiến dịch vu khống chống Liên Xô được phát xít
Đức đưa ra liên quan đến việc các sĩ quan Ba Lan bị giết trong khu
vực Smolensk, trên lãnh thổ Đức chiếm đóng, lập tức được chính phủ
Ba Lan nắm lấy và thông tin rầm rộ trên báo chí
(…).
Tất cả những điều đó khiến chính phủ Liên Xô không thể không nhận
thấy chính phủ Ba Lan đang đi vào con đường thông đồng với chính phủ
Hitler, muốn chấm dứt quan hệ đồng minh và trở nên thù địch với Liên
Xô”[8].
Quả thật, J. Goebbels đã dự đoán không sai, “quả bom chính trị
Katyn” đã phát nổ, vấn đề Katyn trở
thành một trong những "điểm đau đớn” trong quan hệ Liên Xô - Ba Lan
không chỉ tại thời điểm đó, mà còn
mãi
về sau này.
Với mục tiêu hạ uy tín và tuyên truyền về sự tàn bạo
của Liên Xô đối với tù binh,
ngày 16-4-1943, phía Đức
mời Hội Chữ thập đỏ quốc tế và đại diện một số tổ chức xã hội Ba Lan
trong vùng bị phát-xít Đức chiếm đóng đến tham dự việc khai quật và
khám nghiệm tử thi tại 8 ngôi mộ tập thể. Trong số các xác chết được
khai quật,
người ta
tìm thấy tử thi hai vị tướng Ba Lan Bronisław Bohatyrewicz và
Mieczysław Smorawiński. Từ ngày 15-4 đến ngày 15-6-1943, tổng cộng
hơn 4.100 xác chết được khai quật; 2.800 tử thi được nhận dạng[9].
Công việc thu thập tư liệu và nhận dạng tử thi được tiến hành một
cách khoa học, chú trọng
luận giải
cách thức
và loại hình
hung khí thực hiện thảm sát. Đã thu thập được
nhiều luận cứ chứng minh cho sự vô tội của người Đức: Những thư từ
còn lại trong thi
thể các nạn nhân đều có thời gian dừng lại ở năm 1940; tuổi của
những cây
cối
mọc trên mộ,
các chỉ
số đo đạc
phân tử canxi trên hộp sọ tử thi… đều cho chung một
kết quả về thời điểm của vụ thảm sát - năm 1940, khi mà người Đức
chưa có mặt ở vùng này.
Ngày 3-6-1943, việc khai
quật bị dừng lại do diễn biến chiến sự, nhưng
những phân tích, kết luận của toàn bộ quá trình
đã được nước Đức kịp xuất bản thành “Tập tài liệu chính thức về
vụ thảm sát tại Katyn” (Amtliches
Material zum Massenmord von Katyn, Berlin, 1943), khẳng định Liên Xô
phải chịu hoàn toàn tránh nhiệm về cái chết của
11.000 tù nhân Ba Lan[10].
Tài liệu này được dịch ra
hầu hết các ngôn ngữ châu Âu, lưu hành trên các vùng Đức chiếm đóng
và ở các nước đồng minh của Đức.
Sau khi Hồng quân tiến vào
vùng Smolensk và đẩy lùi quân đội Đức, Liên Xô thành lập một Ủy ban
đặc biệt điều tra tội ác của quân đội phát-xít Đức trong rừng
Katyn.
Tháng 1-1944, Ủy ban này công bố một loạt
“chứng cứ” chứng minh vụ thảm sát Katyn là do quân đội Đức gây ra. Năm
1945, I.V. Stalin quyết định tháo “nút
thắt Katyn” bằng cách đưa vụ thảm sát ra Toà án Quân sự tại
Nürnberg. Công tố viên Liên Xô,
Tướng
R.A. Rudenco đã buộc tội phát xít Đức thảm sát 11.000 tù binh Ba Lan
tại Katyn; tuy nhiên, Toà án Quân sự tại Nürnberg đã không đi đến
một phán xét chung cuộc, vì phía Liên Xô không đưa ra được những
bằng chứng thuyết phục. Ngày 22-12-1955, sau nhiều
nỗ lực
vận động của cộng đồng người Ba Lan tại Mỹ, một Ủy ban của Thượng
viện Hoa Kỳ đề nghị chính phủ Hoa Kỳ đưa
vụ Katyn lên Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và buộc tội Liên Xô trước
Tòa án Quốc tế (International Court of Justice) tại
Netherlands, song đề
nghị này không được chính phủ Mỹ chấp thuận.
Năm 1953,
I.V. Stalin chết, bắt đầu “thời kỳ tan băng
Khrushchev”, thắp lên hy vọng về một kỷ nguyên mới trong quan hệ
quốc tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa, song để đảm bảo "sự thống
nhất và đoàn kết", Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô N.
Khrushchev đã không vượt qua “phương pháp
áp lực trực tiếp” đối với nước láng giềng Ba Lan; vì thế, “vấn đề
Katyn”
không thể khêu
lên. Phục vụ
mục tiêu nói trên,
cuối
những năm 50 (XX), dưới chỉ đạo của N. Khrushchev, A.Shlepin[11]
đã bí mật nghiên cứu hồ sơ vụ Katyn. Ngày 3-03-1959, A.Shlepin đệ
trình Văn bản N-632-SH (Н-632-Ш), kiến nghị tiêu huỷ 21.857
cặp tài liệu về các nạn nhân Katyn – những tài liệu như A.Shlepin
giải thích, chẳng những “không có bất kỳ ý nghĩa thực tiễn cũng như
giá trị lịch sử đối với chính phủ Liên Xô (…) và có lẽ chúng cũng
không phải là mối quan tâm thực sự đối với những bạn bè Ba Lan”[12];
trái lại, nếu ngẫu nhiên bị phát hiện, “có thể dẫn đến những hậu quả
vô cùng bất lợi cho Nhà nước Xô-viết”[13].
A. Shlepin đề nghị giữ lại những hồ sơ quan trọng nhất: “Biên bản
cuộc họp
Troika[14]
NKVD đồng ý xử bắn
tù binh Ba Lan và những văn bản thực hiện quyết định đó. Do
khối lượng của các tài liệu này không đáng kể,
nên có thể lưu trữ chúng trong
một cái cặp
đặc biệt (…) phòng
trường hợp phát sinh những chất vấn từ Trung ương Đảng Cộng sản Liên
Xô hoặc chính phủ Liên Xô”[15].
Ngay sau đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã chuẩn y
đề nghị của A. Shlepin, chỉ giữ lại những hồ sơ quan trọng, được tập
hợp thành
một bộ “Hồ sơ đặc biệt № 1”. “Hồ sơ đặc biệt № 1” được
bảo quản theo chế độ tuyệt mật và chỉ những người lãnh đạo cao nhất
của Đảng Cộng sản Liên Xô mới có quyền tiếp cận.
Trong những năm 1971-1976, một số nước phương Tây
(đặc biệt là nước Anh) liên tục đòi làm sáng tỏ vụ việc Katyn, đề
nghị đưa ra Tòa án Quốc tế
tại Netherlands. Phản ứng với “chiến dịch chống đối, bôi nhọ
Nhà nước Xô viết dựa trên việc
bóp méo sự thật lịch sử về các thủ phạm thực sự của thảm kịch Katyn,
nhằm làm căng thẳng tình
hình quốc tế”[16]
– như Liên Xô nhiều lần khẳng định, năm 1978, Liên Xô dựng bia tưởng
nhớ nạn nhân tại Katyn với dòng chữ: “Nạn nhân của chủ nghĩa phát
xít – những sĩ quan Ba Lan bị bắn chết bởi quân đội Hitler năm 1941”.
Cho đến trước khi Liên Xô thực hiện cải cách (perestroika)
năm 1986, “câu
chuyện Katyn” vẫn là điều húy kị, nhạy cảm, bị nghiêm cấm nhắc tới
trong các tranh luận xã hội với lý do “ảnh hưởng tiêu cực đến tình
cảm dân tộc và tình hữu nghị Liên Xô-Ba Lan (…) gây nên những “vết
đen” trong quan hệ hai nước”[17].
Tiến
hành “perestroika”, thực hiện “glasnost”,
với “người đồng minh Ba Lan”, Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Liên Xô M. Gorbachev đặt mục tiêu “phát triển quan hệ
chặt chẽ, vững chắc, đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau nhằm cùng tiến hành
cải cách một cách tối ưu”[18].
Trong tiến trình thắt chặt toàn diện quan hệ Liên Xô - Ba Lan, Tổng
bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô M.
Gorbachev và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Ba Lan W.Jaruzelski
ký Hiệp định về hợp tác Liên Xô - Ba Lan trong lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa và khoa học (1986); theo đó, hai bên “chú trọng cùng
nghiên cứu lịch sử quan hệ giữa hai nước, hai Đảng, hai dân tộc,
không để tồn tại “những vết đen” trong lịch
sử hai nước, nhằm tăng cường tình đoàn kết, chống lại những luận
điệu chia rẽ”[19].
Trên quan điểm “không để lịch sử đốt lên hận
thù dân tộc”, W.Jaruzelski bày tỏ mong muốn
“những trang sử quan hệ Liên Xô – Ba Lan phải được nhìn nhận một
cách thực sự cởi mở và trung thực”[20].
Tiếp nối dòng chảy sự kiện, ngày 19-5-1987, tại Moscow diễn ra phiên
họp toàn thể đầu tiên Ủy ban Liên Xô - Ba Lan về lịch sử quan hệ
song phương, “vấn đề
Katyn” được đưa vào chương trình nghị sự, song những nghiên cứu về
sự kiện này diễn tiến khá trì trệ, “bí mật Katyn” được khai lộ một
cách chậm chạp, bị chi phối bởi
tư tưởng giáo điều,
bởi các yếu tố chính trị trong nội bộ mỗi nước và trong quan
hệ Liên Xô - Ba Lan. Đến ngày
13-4-1990, sau rất nhiều chần chừ, một số tư liệu lưu trữ liên quan
đến sự kiện Katyn mới được chuyển giao cho Tổng thống
W.Jaruzelski
nhân chuyến
thăm Liên Xô. Ngày 13-4-1990, TASS ra Tuyên bố chính thức
thừa nhận trách nhiệm của Liên Xô trong “thảm kịch Katyn”[21],
nói rõ: “Tài liệu tìm thấy trong kho lưu trữ cho phép kết luận về
vai trò, trách nhiệm của Beria,
Merkulov và các đồng sự”[22].
TASS đồng
thời bày tỏ sự hối tiếc sâu sắc về sự kiện bi thảm Katyn, gọi đó là
“một trong những tội ác khủng khiếp nhất của
chủ nghĩa
Stalin”[23].
Tháng
6-1991, B. Yeltsin trở thành Tổng thống Liên bang Nga và
ngay lập tức đã nhận thấy
“vấn đề
Katyn” – vào thời điểm đó - có thể
có lợi cho những diễn biến chính trị nội bộ của nước Nga liên quan
đến việc xóa bỏ Điều 6 trong Hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Liên Xô ra ngoài vòng pháp luật[24].
“Hồ sơ Katyn” chính là một chứng cứ
thuyết phục cho
B.Yeltsin “luận tội” chủ nghĩa
Stalin và Đảng Cộng sản Liên Xô.
Nhằm chứng minh cho tính bất hợp pháp của
Đảng Cộng sản Liên Xô, theo
lệnh của B.Yeltsin, kho lưu trữ tư
liệu Đảng Cộng sản Liên Xô được mở, hơn 6.000
các tài liệu tuyệt mật được giải mã, kể cả bộ sưu tập tài liệu về vụ
thảm sát Katyn[25].
Ngày 24-9-1992, “Hồ sơ đặc biệt № 1” được mở ra và
trước tính chất nghiêm trọng của nó, Tổng
thống B.Yeltsin đã có một quyết
định nhanh chóng: Lệnh chuyển ngay lập tức toàn bộ những tài liệu
“chết người” này cho Ba Lan; đồng thời, chuyển một bản sao đến Tòa
án Hiến pháp và Viện kiểm sát tối cao[26].
Ngày 14-10-1992, “Hồ sơ đặc biệt № 1” được đại diện
chính phủ Nga trao cho Tổng thống Ba Lan
Walesa và nội dung của nó nhanh chóng được công bố trước công
luận Ba Lan. Sau sự kiện này, ngày
15-10-1992, trả lời phỏng vấn của Đài truyền hình Ba Lan, B.Yeltsin
“hào hứng nói về những tội ác khủng khiếp
của chủ nghĩa Stalin, bày tỏ hy vọng rằng nó sẽ không còn là điểm
nghẽn trong quan hệ song phương Nga - Ba Lan”[27].
3- Toàn cảnh sự kiện
Những
diễn giải trên đây cho thấy, đến trước năm 1992, trên các văn bản
chính thức của Liên Xô, kẻ bị buộc tội gây ra vụ thảm sát
Katyn là quân đội
Đức Quốc xã. Chỉ đến năm 1992 (khi Liên bang Cộng hòa XHCN
Xô-viết sụp đổ một năm), sau rất nhiều toan tính chính trị, Liên
bang Nga mới công bố những tài liệu trong bộ “Hồ sơ đặc biệt № 1”
về vụ thảm sát Katyn[28].
Giải mã bộ Hồ sơ, câu chuyện về vụ thảm sát
Katyn được hình dung như sau:
Ngày
3-3-1940, L.Beria[29]
gửi đến Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng
sản Liên Xô (b) Văn bản №
794/B[30],
báo cáo: “Trong các trại
giam và trại tạm giam ở phía Tây Ucraina và Tây Belaruxia hiện đang
giam giữ một số lượng lớn các sĩ quan cũ của quân đội Ba Lan, cảnh
sát Ba Lan, các nhân viên tình báo, thành viên các tổ chức phản cách
mạng, người tị nạn, lực lượng nổi dậy và một số người khác (…) tất
cả bọn họ đều là kẻ thù truyền kiếp, chứa đầy thù hận với chính
quyền Xô viết”[31].
L.Beria khẳng định: “Những tù binh này dù đang bị giam giữ song vẫn
cố gắng, nỗ lực tiếp tục tuyên truyền chống Liên Xô và chỉ chờ được
phóng thích là sẵn sàng tích cực tham gia vào cuộc chiến chống lại
chế độ Xô viết”[32].
L.Beria thống kê: “Trong các trại giam tù binh chiến tranh hiện giam
giữ tổng cộng (không tính các binh sĩ và hạ sĩ quan) 14.700[33]
tù binh người Ba Lan gồm các quan chức của bộ máy chính phủ, các chủ
đất, cảnh sát, điệp viên, hiến binh, cai ngục; trong số đó, 97% mang
quốc tịch Ba Lan (…). Ở trại giam ở vùng miền Tây Ukraina và
Belorusia có tổng cộng 18.632[34]
người bị bắt giữ (trong đó có 10.685 người Ba Lan”[35].
Sau khi kết luận rằng, “xuất phát từ thực tế bọn họ đều là những kẻ
thù sắt đá không đội trời chung với chính quyền Xô-viết, không có
khả năng cải hóa”, L.Beria đề nghị “giao cho NKVD xem xét, giải
quyết, xử lý toàn bộ 14,700 trường hợp tù binh Ba Lan và 11.000
trường hợp tù binh tại các nhà tù phía Tây Ukraine và Tây Belorussia
bằng các thể thức đặc biệt với hình thức trừng phạt cao nhất (…),
không cần bất kỳ một cuộc hỏi cung, xét xử, luận tội và kết án chính
thức”[36].
L.Beria đề cử giao cho L.Beria, V.Merkulov và L.Bashtakov
thực hiện quyết định nêu trên[37].
Xem
xét đề nghị của L.Beria, ngày 5-3-1940,
một số thành viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (b)
biểu quyết thông qua Quyết định
No.13/144 (gồm I.V.Stalin,
K.Voroshilov, V. Molotov và A.Mikoyan[38],
kèm ghi chú: M.Kalinin - đồng ý; L.Kaganovich - đồng ý)[39],
chuẩn y đề nghị của L.Beria xử bắn
toàn bộ số tù binh Ba Lan đang bị giam giữ; giao trách nhiệm hoàn
tất công việc cho “bộ ba” V.Merkulov, B.Kobulov và
L.Bashtako[40].
Ngày
22-03-1940, L. Beria ký Sắc lệnh No. 00350, “Về việc sơ tán các
nhà tù của Cộng hòa XHCN Ukraina và Cộng hòa XHCN Belorusia”,
chỉ đạo thực hiện một kế hoạch thảm sát lớn nhất và ghê rợn nhất
lịch sử thế giới thế kỷ XX, mang mật danh
“Chiến dịch giảm tải trại tù”[41].
Chưa đầy một tháng sau quyết định nói
trên, các công việc chuẩn bị cho cuộc thủ tiêu tù bình Ba Lan được
xúc tiến khẩn trương. NKVD lên kế hoạch vận chuyển tù nhân đến chỗ
xử bắn: Các tù nhân đang bị giam giữ tại vùng phía Tây
Ukraina được chuyển tới Kharkov, Kherson
và Kiev, các tù nhân ở
Belorusia được chuyển về
Minsk, còn các tù nhân ở Ostashkov được chuyển tới Kalinin. Ở làng
Mednoye, không xa Kalinin, các máy
xúc bắt đầu đào những chiếc hố lớn.
Đầu tháng 4-1940, những chuyến xe chở tù
nhân bắt đầu lăn bánh, mỗi đợt, vận chuyển khoảng từ 350-400 tù
nhân. Các tù nhân không hay biết mình đang bị đem đến chỗ chết, thậm
chí nhiều người còn vui mừng ngỡ rằng sẽ được trả tự do. Ghi chép
của một tù nhân - Thiếu tá Solxki Adam (được chuyển đi từ trại
Kozelski ngày 7-4-1940) về những giây phút thương tâm cuối cùng đã
nói lên điều đó:
Ngày 20-4. 12 giờ, chúng
tôi đang ở phía Tây
Smolensk. Ngày 21-4. Chúng tôi bị đánh thức, được đưa
lên những chiếc xe ôtô và được mang đi đâu đó. Ngay từ buổi sáng,
mọi việc đã có vẻ bất thường (…). Chúng tôi được đưa tới một khu
rừng giống như khu nghỉ dưỡng mùa hè, bị lục soát một cách kỹ lưỡng,
bị tịch thu nhẫn cưới, thắt lưng, dao nhíp, đồng hồ - lúc đó đồng hồ
đang chỉ 6h30 phút sáng…[42].
“Đồng
hồ dừng lại ở 6h30 phút sáng” – những “bản án” được thực hiện một
cách lạnh lùng. Các tù nhân ở Kharkov và
Kalinin bị bắn ngay trong nhà tù. Tại Katyn, tù nhân bị dẫn đến
trước những hố to đã đào sẵn và bị bắn vào đầu ở cự ly gần bằng
những khẩu súng lục, chủ yếu là súng Đức - "Walter" và "Browning”
(đó cũng là một trong những cơ sở để sau này Liên Xô đổ lỗi cho quân
đội Đức là thủ phạm).
Vụ xử bắn tù nhân kéo dài đến giữa tháng
5-1940 và diễn một cách suôi sẻ: Tại khu rừng gần làng Katyn cũng
như trong một số trại giam trên đất nước Liên Xô, chỉ trong vài tuần
đã có gần 22.000 tù nhân -
công dân Ba Lan bị giết chết theo lệnh của Ủy ban Nhân dân Nội vụ.
Sau khi “Chiến dịch giảm tải trại tù” kết thúc, “đã xử bắn
21.857 người; trong đó: 4.421 bị bắn tại Katyn (vùng
Smolensk), 3.820 người bị bắn tại
trại Starobelsk gần
Kharkov, 6.311 người bị bắn tại
trại
Ostashkov (vùng Kalinin),
7.305 người bị bắn chết trong các nhà tù phía Tây Ukraine và Tây
Belorusia”[43].
Vụ thảm sát không chỉ diễn ra ở Katyn,
nhưng thuật ngữ "Thảm sát Katyn" được gọi chung cho việc giết
hại các tù nhân Ba Lan (đa phần là
tầng lớp tinh hoa, sĩ quan từ cấp tá trở lên)
vì vụ nổ súng tại làng Katyn xảy ra trước nhất.
Sau đó, việc sát hại 7.000 người
(trong số đó có 1.000 sĩ quan cao cấp Ba Lan) bị Liên Xô giam giữ
trong các nhà tù ở miền Tây Ukraina và
Belorusia cũng được gắn
với cái tên “Thảm sát Katyn”.
4- Câu chuyện chưa kết
thúc
Sau
rất nhiều nỗ lực và biến động chính trị, cuối cùng, sự thật về một
thảm kịch khủng khiếp trong lịch sử cũng đã dần phơi tỏ. Tại nước
Nga, năm 1993, tư liệu Hồ sơ
Katyn được đăng tải trên Tạp chí khoa học “Câu hỏi của
lịch sử” (Вопросы истории); đồng thời,
Nhà nước Nga tạo điều kiện cho các nhà khoa học nghiên cứu Hồ
sơ[44].
Cũng từ thời điểm đó, các nhà khoa học Nga và Ba Lan nỗ lực điều
tra, làm rõ nhiều vấn đề xung quanh vụ
thảm sát Katyn. Tháng 8-1993, những
kết quả điều tra ban đầu được công bố trong công trình “Nước Nga
và Katyn”
(Nxb. Karta, Ủy ban Khoa học toàn Ba Lan tài trợ)[45].
Năm 1995, các nhà khoa học Liên bang Nga và Ba Lan xuất bản ấn phẩm
“Katyn: Tư liệu tội ác”[46].
Năm 1999, toàn bộ những tư liệu quan trọng tiếp tục được công bố
trong cuốn “Katyn: Những tù binh của
cuộc chiến không tuyên bố. Hồ sơ và tư liệu”[47].
Những
năm 1990-2004, Viện Kiểm sát
quân sự tối cao Liên Xô (từ năm 1992 là Viện
Kiểm sát quân sự tối cao Liên bang
Nga) thực hiện nhiệm vụ điều tra thảm họa
Katyn; trong quá trình đó, Viện Công tố đã tiến hành 18 cuộc
khảo sát, nghiên cứu hơn 1.000 đối tượng, khai quật 200 thi thể và
phỏng vấn hơn 9.000 nhân chứng[48].
Kết quả điều tra được lưu giữ trong 183
tập hồ sơ, song chỉ có 116 tập được công bố đầy đủ. Ngày 11-3-2005,
Viện Kiểm sát Quân sự tối cao Liên bang Nga chính thức tuyên bố
chấm dứt điều tra, xem vụ Katyn là tội phạm thông thường,
“không đủ cơ sở để coi vụ thảm sát ở
Katyn là diệt chủng” vì tính chất của nó không nhằm vào sự phân biệt
đối xử với người dân Ba Lan và đã quá thời hạn hiệu lực hồi
tố[49].
Ngày 10-4-2010, nguyên Tổng thống Ba Lan Lech Kaczynski cùng phu
nhân và 94 quan chức đã tử nạn bởi một tai nạn máy bay ở
Smolensk, khi thực hiện chuyến công du dự lễ tưởng niệm Katyn.
Trong một động thái chia sẻ nỗi đau vì cái chết của Tổng thống Ba
Lan và Đoàn quan chức tháp tùng, ngày 8-5-2010, Tổng thống Nga
D.Medvedev trao cho người đồng cấp Ba Lan B. Komorowski 67 tập tài
liệu mật về vụ thảm sát Katyn, hứa sẽ trao tiếp tài liệu và những
thông tin liên quan. Năm 2010, trong Lễ kỷ niệm 65 năm chiến
thắng phát-xít, Tổng thống Nga D.Medvedev đã nhắc đến “tội ác
Katyn”, gọi đây là một “trang đen tối của lịch sử".
Ngày
25-11-2010, với tỉ lệ ủng hộ là 342/450, Quốc hội Liên bang Nga bỏ
phiếu thừa nhận vụ thảm sát hàng chục ngàn công dân và sĩ quan Ba
Lan là do lực lượng công an Liên Xô thi hành[50].
Quyết định của Quốc hội Nga được người dân Ba Lan đánh giá cao, coi
“Nghị quyết lịch sử" này không chỉ quan trọng đối với người Ba Lan,
mà còn đối với quan hệ Nga - Ba Lan, cũng như với bản thân người
Nga.
Ngày
21-10-2013, tương tự như trong phán quyết cấp sơ thẩm năm 2012,
trong một phán quyết chung cuộc về vụ thảm sát Katyn, Tòa
án Nhân quyền châu Âu (trụ sở tại Strasbourg) tuyên bố không
có thẩm quyền phán quyết về các trường hợp giết người “xảy ra 58 năm
trước khi Công ước Châu Âu về nhân quyền có hiệu lực tại Nga từ năm
1998”[51].
Tuy nhiên, 17 thẩm phán của thuộc Đoàn thẩm phán tối cao Tòa
án Nhân quyền châu Âu đã phê phán Nga về tội “thiếu tường trình tích
cực” đối với số phận các tù nhân Ba Lan tại Katyn bị Liên Xô
tử hình vào năm 1940; nhất trí lên án: “Nga thiếu sót trong
nghĩa vụ hợp tác với Toà án Châu Âu, miễn cưỡng trong việc cung cấp
đầy đủ các chứng cứ cho việc xem xét vụ án”[52].
Nhìn
chung, người dân Ba Lan không hài lòng và không thỏa mãn với những
tuyên bố của Viện
Kiểm sát quân sự tối cao Liên Xô
cũng như Tòa án Nhân quyền châu Âu. Phía Ba Lan trước sau nhất quán
quan điểm: Vì tính chất giết người hàng loạt, những cuộc thảm sát
này thích hợp để quy vào tội ác chống nhân loại; mong muốn nước Nga
“có những cử chỉ thiện chí và chân thành hơn”, chính thức xin lỗi và
bồi thường cho gia đình các nạn nhân.
Có
thể thấy rằng, Nhà nước Liên bang Nga chỉ dừng lại ở mức độ công
nhận vụ thảm sát Katyn là lỗi của “chế độ toàn trị Stalin”, không
muốn đi xa hơn điều đó. Mặc dù thừa nhận “đây là tội ác không có lời
bào chữa”, song Nhà nước Liên bang Nga tìm cách lý giải làm nhẹ bớt
vấn đề[53],
chỉ dừng lại ở những việc như giải mật hồ sơ, công bố sự thật, thừa
nhận là tội ác của “chế độ toàn trị Stalin”…, coi đó như là những
hành động mang tính thực tế (đã thừa nhận).
Vẫn
chưa có một kết cục cuối cùng cho “vấn đề Katyn” – một kết cục vừa
có thể xoa dịu nỗi đau, chữa lành nỗi ám ảnh của thân nhân những
người bị thảm sát, lại vừa có thể thỏa mãn được nước Nga hiện đại
đang có những tranh luận khác nhau về quá khứ, nhằm cổ vũ cho những
giá trị trường tồn, khơi dạy lòng tự hào dân tộc, phục vụ mục tiêu
chấn hưng đất nước, khôi phục vị thế cường quốc[54].
Có
lẽ, không có cách nào khác hơn để chia tay với nỗi đau bằng cách
dũng cảm nhìn nhận/thừa nhận nó. Và trên hết,
không thể đầu cơ lịch sử!
Với quá khứ, với lịch sử, luôn cần sự thẳng thắn, công tâm và
trung thực.
[1]
Катынь.
Март 1940 г. - сентябрь 2000 г. Расстрел. Судьбы живых. Эхо
Катыни. Документы. М., 2001, С. 387.
[2]
Катынь. Март 1940 г. - сентябрь 2000 г.
Указ. Соч, С.388.
[3]
Развитие польско-советских отношений после событий под
Катынью, Библиотека иследователям Катынского дела,
РФ.
[4]
Бабий Яр под Катынью? // Военно-исторический журнал.
1990. № 12. С. 35.
[5]
Катынь, Библиотека иследователям Катынского дела,
РФ.
[6]
Е. Прудникова, И. Чигирин: Катынь.
Ложь, ставшая историей,Библиотека
иследователям Катынского дела,
РФ.
[7]
Катынь. Март 1940 г. - сентябрь 2000 г.
Указ. Соч, С. 455.
[8]
Катынь. Март 1940 г. - сентябрь 2000 г.
Указ. Соч, С. 455-456.
[9]
Расследование Катынской трагедии немецкой
комиссией, Библиотека
иследователям Катынского дела,
РФ.
[10]
Выписка из протокола 3-огo заседания Политбюро ЦК КПСС от 5 апреля 1976 год,
АПРФ по катынскому делу
[11]
Người đứng đầu KGB từ tháng
12-1958 đến tháng 11-1961.
[12]
Pукописная записка председателя КГБ при СМ СССР А.Н.
Шелепина от 3 марта 1959 г. № 632-Ш, Закрытый пакет
документов о катынском деле, РГАСПИ, Ф. 17, оп. 166,
д.621,Л.139.
[13]
Pукописная записка председателя КГБ при СМ СССР А.Н.
Шелепина от 3 марта 1959 г,
Указ. Соч. Л.139
[14]
Troika NKVD
là một Ủy ban đặc biệt gồm ba người:
Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đảng; Chủ tịch
NKVD, Công tố viên trưởng Viện kiểm sát liên bang Tối cao.
Ủy ban này có trong tay siêu quyền lực, xử lý những vấn đề
về an ninh không cần qua tiến trình xét xử theo luật pháp.
[15]
Pукописная записка председателя КГБ при СМ СССР А.Н.
Шелепина от 3 марта 1959 г,
Указ. Соч. Л.139
[16]
Выписка из протокола 3-огo заседания Политбюро ЦК КПСС от 5
апреля 1976 год,
Указ. Соч.
[17]
Медведев В.А. Распад: Как он назревал в “мировой системе
социализма”. М., 1994. С. 96.
[18]И.
Яжборовская, А. Яблоков, B. Парсаданова: Катынский
синдром в советско-польских и российско-польских отношениях,
Указ. Соч.
[19]
Декларация о советско-польском сотрудничестве в области
идеологии, науки и культуры. М., 1987. С.9.
[20]
Декларация о советско-польском сотрудничестве в области
идеологии, науки и культуры,
Указ. Соч. С. 10.
[21]
Признание советскими властями ответственности
за Катынскую трагедию,
Библиотека иследователям Катынского дела,
РФ.
[22]
Признание советскими властями ответственности за Катынскую
трагедию, Указ. Соч.
[23]
Tuy thừa nhận trách nhiệm của Liên Xô trong vụ thảm sát
Katyn, nhưng trong Sắc lệnh
“Về
kết quả của
chuyến thăm Liên
Xô của
Bộ trưởng Ngoại giao nước
Cộng hòa Ba Lan
Skubiszewski”
(3-11-1990), tại Điều 9,
Gorbachev chỉ thị Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô dưới sự hỗ
trợ của Tòa án Tối cao, Bộ Quốc phòng và các cơ quan hữu
quan khác, nghiên cứu, làm rõ “những sự kiện lịch sử trong
quan hệ song phương Liên Xô – Ba Lan, mà phía Ba Lan có gây
tổn hại cho Liên Xô. Kết quả đó, trong những trường hợp cần
thiết, có thể đem ra trong các cuộc hội đàm về những “vết
đen” trong quan hệ hai nước” (Nguồn: Расположение
Президентa Союза Советских Социалистических Республик, 3
ноября 1990 г, №
РП-979, АПРФ по катынскому
делу).
[24]
Này 20-7-1991, Yeltsin ban bố Sắc lệnh phi đảng hóa và tuyên
bố nghiêm cấm hoạt động của các chính đảng trong cơ quan nhà
nước các cấp, cũng như các đoàn thể quần chúng và doanh
nghiệp cơ sở, chĩa mũi dùi vào Đảng Cộng sản Liên Xô, dẫn
đến sự sụp đổ của Đảng CS Liên Xô và sự giải thế của Liên
Xô.
[25]
Центр хранения современной документации, Ф. 89. Оп. 14.
Д. 1-20.
[26]
Секреты пакета № 1. С. 38.
[27]
И. Яжборовская, А. Яблоков, B. Парсаданова: Катынский
синдром в советско-польских и российско-польских отношениях,
Указ. Соч.
[28]
Главная военная прокуратура, Уголовное дело № 159. Т.
115. Л. 4-29, 45-78.
[29]
Phụ trách bộ máy an ninh quốc gia và cảnh sát mật Liên Xô
những năm
1946–1953.
[30]
No 794/Б, đóng dấu của
Ủy ban Nhân dân Nội vụ Liên Xô –
NKVD (tiếng Nga:НКВД).
[31]Записка
НКВД СССР № 794/B, о польских военнопленных,
подписанная Л. П. Берия, Закрытый пакет документов о
катынском деле, РГАСПИ, Ф. 17, оп. 166, д.621, Лист
130-133.
[32]Записка
НКВД СССР № 794/B, о польских военнопленных, подписанная
Л. П. Берия,
Указ. Соч, Л. 130..
[33]
L.Beria đưa ra con số thống kê cụ
thể về thành phần14.700 tù binh người Ba Lan: Cấp
tướng, đại tá và trung tá: 295; thiếu tá, đại úy: 2.080;
thượng úy, trung úy, thiếu úy: 6049; cảnh sát, hiến binh,
lính biên phòng: 1.030; cảnh vệ, dân binh, điệp viên, cai
ngục: 5.138; chức sắc, chủ đất, linh mục, người nhập cư: 144
(Nguồn:
Записка
Л.Берии И. В. Сталину (3-3-1940), № 794/Б, АПРФ, ф. 3.
Закрытый пакет № 1,
Л.131).
[34]
L.Beria thống kê cụ
thể về thành phần
18.632
tù binh như sau: Sĩ quan cũ:
1.207;
cảnh sát, trinh sát, hiến binh:
5.141;
điệp viên, biệt kích:
347;
chủ đất, chủ xưởng, quan chức:
465;
thành viên các tổ chức nổi dậy và các thành phần khác:
5.345;
người tị nạn:
6.127
(Nguồn:
Записка
Л.Берии И. В. Сталину (3-3-1940), № 794/Б, АПРФ, ф. 3.
Закрытый пакет № 1,
Указ. Соч,
Л. 131).
[35]
Записка Л.Берии И. В. Сталину (3-3-1940), № 794/Б, АПРФ,
ф. 3. Закрытый пакет № 1,
Указ. Соч. Л.133.
[36]
Записка Л.Берии И. В. Сталину (3-3-1940), № 794/Б, АПРФ,
ф. 3. Закрытый пакет № 1,
Указ. Соч. Л..132.
[37]
Записка Л.Берии И. В. Сталину (3-3-1940), № 794/Б, АПРФ,
ф. 3. Закрытый пакет № 1,
Указ. Соч. Л..133.
[38]
Trong cuốn sách: “Stalin: The Court of the Red Tsar"
(Nxb. Vintage, 2005), tác giả
Simon Sebag Montefiore có chú giải: Con
trai của Mikoyan là Stepan nói rằng, chữ ký của cha mình
trên tờ Quyết định này là "gánh nặng nặng nhất đối
với gia đình của chúng tôi” (p.94).
[39]
Выписка из протокола № 13 пункт 144 заседания Политбюро ЦК
ВКП(б), № П13/144 , 5 марта 1940 (В книге “Катынь:Пленники
необъявленной войны”, Под редакцией Р.Г.Пихои, А.Гейштора,
М. 1999), C.606.
[40]
Выписка из протокола №13 заседания Политбюро ЦК ВКП(б)
“Особая папка” от 5 марта 1940 г, No.13/144,
Указ. Соч,
Л.134.
[41]
Còn được dịch là: “Chiến dịch sơ tán nhà tù và trại
giam”.
[42]
Катынский расстрел — официальные сведения и версии,
Библиотека иследователям Катынского дела,
РФ.
[43]
Pукописная записка председателя КГБ при СМ СССР А.Н.
Шелепина от 3 марта 1959 г. №632-Ш, Закрытый пакет
документов о катынском деле, РГАСПИ, Ф. 17, оп. 166,
д.621,Л.138.
[44]
Секретные документы из особых папок / Подготовка
публикации и вступительная статья к ней М.И. Семиряги //
Вопросы истории. 1993. № 1. С.7-22
[45]
Orzeczenie Komisji ekspertów. Moskwa, 2 sierpnia 1993 //
Rosja a Katyn. W-wa, 1994.
[46]
Katyn. Dokumenty zbrodni. T. 1. Jeńcy nie wypowiedzianej
wojny. Sierpień 1939 — marzec 1940. W-wa, 1995; T. 2.
Zagłada. Marzec-czerwiec 1940. W-wa, 1998; Катынь: Пленники
необъявленной войны.
[47]Катынь.
Пленники необъявленной войны.Документы и материалы,
Под редакцией Р.Г.Пихои, А.Гейштора, М. 1999.
[48]
Расследование Катынского убийства Главной
военной прокуратурой СССР,
Библиотека иследователям Катынского дела,
РФ.
[49]
Trong việc
đánh giá sự kiện Katyn
năm 1940, phía Nga cho rằng phải xuất phát từ Bộ Luật Hình
sự Liên Xô năm 1926, theo đó, thời hạn hiệu lực của những
hành vi phạm tội như ở
Katyn
được xác định là 10 năm, đó là chưa kể đến chuyện các thủ
phạm của vụ thảm sát đều đã qua đời (Nguồn:
Nhân tai nạn của vợ chồng
tổng thống Ba Lan: công lý trong vụ thảm sát Katyn
đã được tái lập?
Nhịp Cầu Thế Giới Online, 14-4-2010)
[50]
Mỹ Loan: Nga thừa nhận Stalin ra lệnh thảm sát Katyn,
Tuổi trẻ Online, 28-11-2010.
[51]
Европейский суд по правам человека поставил точку в
"катынском деле": Россия оправдана,
Politikus.ru, 21-10-2013.
[52]
Европейский суд по правам человека поставил точку в
"катынском деле": Россия оправдана,
Указ. Соч.
[53]
Phía Nga cho rằng, sở dĩ Stalin đưa ra quyết định thực hiện
thảm sát Katyn là nhằm trả thù cho thất bại của Hồng quân
Liên Xô năm 1920 (trong chiến tranh Ba Lan-Liên Xô, đã có
32.000 Hồng quân Liên Xô bị phía Ba Lan giết hại). Nước Nga
cũng đưa ra quan điểm: Nhìn lại thấu đáo lịch sử, không phải
để gánh nặng lịch sử đè lên quan hệ Nga - Ba Lan, cũng không
phải đổ lỗi cho nhân dân Nga, mà loại bỏ những thành kiến,
thiếu tin cậy đã từng tồn tại trong quan hệ Nga- Ba Lan do
vấn đề thảm sát Katyn và để đóng lại trang sử cũ, lật trang
sử mới, viết những điều tốt đẹp (Nguồn: Максим Жapoв,
Судьба Катыни,
Жyp.
Валовой внутренний продукт (ВВП), № 5
(55), 2010).
[54]Một
nước Nga trên con đường phục hưng, khôi phục vị trí cường
quốc đang rất cần sự thống nhất, những giá trị tinh thần
truyền thống, lòng tự hào dân tộc…; do vậy; rất khó vượt qua
ngưỡng để gọi chính xác tên sự vật. Ở nước Nga hiện nay, dư
luận xã hội cũng cho rằng, lại một lần nữa, Nhà nước Liên
bang Nga đang sử dụng lịch sử và các khoa học xã hội vào
cuộc chiến tư tưởng (chứ không phải cuộc chiến ý thức hệ như
trước đây).
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khaoch xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khaoch xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment