Monday, March 24, 2014

Diễn văn làm thay đổi thế giới của Putin

ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM. Bản dịch nhanh diễn văn của Tổng thống Nga Putin trong buổi lễ ký chính thức công nhận Ukraina là một phần lãnh thổ của Nga: "Nước Nga đã rơi vào một vị thế không thể thoái lui. Nếu anh lấy hết sức ép một cái lò xo, nó sẽ bật lại rất mạnh. Hãy luôn nhớ điều này. Hôm nay, điều bắt buộc là phải chấm dứt cơn cuồng loạn này, gạt bỏ lối khoa trương thời Chiến tranh Lạnh và thừa nhận thực tế hiển nhiên rằng: Nước Nga là một bên tích cực và độc lập trong các vấn đề quốc tế; giống như các nước khác, Nga có các lợi ích quốc gia mà các nước phải tính đến và tôn trọng. Đồng thời, chúng ta cảm ơn tất cả những người đã thấu hiểu các hành động của chúng ta ở Crimea. Chúng ta cảm ơn nhân dân Trung Quốc, các nhà lãnh đạo của họ luôn xem xét tình hình ở Ukraine và Crimea trong bối cảnh chính trị và lịch sử đầy đủ. Chúng ta cảm kích sự thận trọng và khách quan của Ấn Độ. Hôm nay, tôi muốn nhắn nhủ nhân dân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, những người ngay từ ngày lập quốc và thông qua bản Tuyên ngôn Độc lập, vẫn luôn kiêu hãnh đặt tự do lên trên hết thảy. Phải chăng mong muốn của người dân Crimea được tự do lựa chọn vận mệnh cho mình không phải là một giá trị như vậy? Xin hãy hiểu chúng tôi. Tôi tin rằng những người dân châu Âu, mà đầu tiên và trước hết là người Đức cũng sẽ hiểu tôi. Xin cho tôi được nhắc các bạn rằng trong quá trình tham vấn chính trị về việc thống nhất Đông Đức và Tây Đức, một số nước khi đó và hiện nay vẫn là đồng minh của Đức, đã không ủng hộ việc thống nhất. Thế nhưng, nước Nga đã bày tỏ sự ủng hộ dứt khoát đối với ý nguyện thống nhất thành thật và mãnh liệt của người Đức. Tôi tin rằng các bạn chưa quên điều đó, và tôi mong rằng các công dân Đức sẽ ủng hộ khát vọng khôi phục sự thống nhất của người Nga, của nước Nga lịch sử. Tôi cũng muốn nói với nhân dân Ukraine. Tôi chân thành mong muốn các bạn hiểu chúng tôi: Chúng tôi không bao giờ muốn làm tổn hại các bạn theo bất cứ cách nào, cũng không bao giờ muốn làm làm tổn thương lòng yêu nước của các bạn, không như những người sẵn sàng hy sinh sự thống nhất của Ukraine vì các tham vọng chính trị. Họ giương khẩu hiệu ca ngợi sự vĩ đại của Ukraine, nhưng cũng chính họ là những người làm mọi thứ để chia rẽ đất nước này. Những người bạn Ukraine thân mến, tôi mong các bạn hãy nghe tôi. Xin đừng tin những ai muốn các bạn sợ hãi nước Nga, kêu gào rằng rồi các vùng khác của Ukraine cũng theo chân Crimea. Chúng tôi không hề muốn chia cắt Ukraine. Chúng tôi không cần điều đó. Còn về Crimea, đó đã và sẽ mãi mãi là vùng đất của người Tatar, người Ukraine và người Nga. Tôi xin được nhắc lại rằng, như thực tế đã có từ nhiều thế kỷ nay, Crimea sẽ là mái nhà chung của tất cả những người sống ở đó. Crimea là di sản lịch sử chung của chúng ta và là một nhân tố quan trọng trong sự ổn định khu vực. Và vùng đất có ý nghĩa chiến lược này nên là một phần của một quốc gia ổn định và vững mạnh mà hiện chỉ có thể là nước Nga. Nếu không, thưa các bạn (tôi đang nói với cả nước Nga và Ukraine), các bạn và chúng tôi, người Nga và người Ukraine, có thể mất hoàn toàn Crimea. Và việc này có thể xảy ra trong một tương lai rất gần. Xin hãy suy nghĩ về điều đó. Cũng xin hãy để tôi lưu ý rằng, chúng ta đã từng nghe Kiev tuyên bố Ukraine sẽ sớm gia nhập NATO. Điều này có ý nghĩa như thế nào với Crimea và Sevastopol trong tương lai? Nó có thể có nghĩa là hải quân NATO sẽ ở ngay đây, trong thành phố là niềm vinh quang của quân đội Nga. Và viễn cảnh này có thể tạo ra một mối đe dọa không hề tưởng tượng mà hoàn toàn có thật đối với toàn bộ miền Nam nước Nga. Tất cả những điều đáng ra có thể trở thành hiện thực này không xảy ra là nhờ sự lựa chọn của người dân Crimea, và tôi muốn cảm ơn họ về điều đó." Trích diễn văn làm thay đổi thế giới của Pu tin. Nguồn: Soha,  Blog Hoài Tố Hạnh.

TOÀN VĂN BÀI DIỄN VĂN CỦA TỔNG THỐNG PU TIN
(Bấm vào đây để nghe)
<iframe width="560" height="315" src="//www.youtube.com/embed/PDLwu4E35us" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

Thưa các thành viên Hội đồng Liên bang, thưa các vị đại biểu Duma Quốc gia. Các đại biểu của Nước cộng hòa Crimea và Sevastopol hiện đang ở đây với chúng ta, những công dân Nga, nhân dân của Crimea và Sevastopol!

Các bạn thân mến, việc chúng ta tập trung ở đây hôm nay có liên quan tới một vấn đề có ý nghĩa lịch sử và sống còn với tất cả chúng ta. Một cuộc trưng cầu dân ý tuân thủ đầy đủ mọi thủ tục dân chủ và chuẩn mực quốc tế vừa được tổ chức ở Crimea ngày 16/3.

Hơn 82% cử tri đã tham gia bỏ phiếu. Và hơn 96% trong số họ đã ủng hộ việc hợp nhất với nước Nga. Những con số này, tự nó đã nói lên tất cả.

Để hiểu lý do đằng sau sự lựa chọn này nên hiểu về lịch sử Crimea và những điều có ý nghĩa với cả nước Nga và Crimea.

Mọi thứ ở Crimea đều cho thấy niềm kiêu hãnh và lịch sử chung của chúng ta. Đó là nơi có chứng tích Khersones cổ xưa, nơi hoàng tử Vladimir được rửa tội. Tinh thần Chính thống giáo mà Ngài nuôi dưỡng là nền tảng cho văn hóa, văn minh và những giá trị nhân văn kết nối nhân dân Nga, Ukraine và Belarus. Mộ phần của những người lính Nga mà sự anh dũng của họ đã đưa Crimea trở thành một phần của Đế quốc Nga cũng ở Crimea. Đó cũng là nơi có Sevastopol – thành phố huyền thoại với lịch sử chói lọi, một pháo đài, nơi đã khai sinh ra Hạm đội Biển Đen của nước Nga. Crimea là Balaklava và Kerch, Malakhov Kurgan và Sapun Ridge (những địa danh lịch sử ở Crimea – ND). Mỗi địa danh này đều là cái tên vô cùng tha thiết trong lòng chúng ta, là biểu tượng của lòng dũng cảm vô song và vinh quang của quân đội Nga.

Crimea là nơi giao thoa độc đáo giữa truyền thống và văn hóa của những con người khác nhau. Điều này làm nó giống nước Nga, nơi không một tộc người đơn lẻ nào bị quên lãng trong những thế kỷ qua. Người Nga và người Ukraine, người Tatar ở Crimea và người của các dân tộc khác đã cùng sống bên nhau ở Crimea, cùng gìn giữ diện mạo, truyền thống, ngôn ngữ và tín ngưỡng của dân tộc mình.

Thật là ngẫu nhiên khi dân số tại bán đảo Crimea hiện nay là 2,2 triệu người, trong đó, gần 1,5 triệu là người Nga, 350.000 là người Ukraine, song phần lớn vẫn coi tiếng Nga là tiếng mẹ đẻ. Có khoảng 290.000 - 300.000 là người Tatar tại Crimea, những người cũng nghiêng về phía Nga - theo kết quả của cuộc trưng cầu dân ý.

Đúng, đã có lúc người Tatar tại Crimea, cũng như một vài dân tộc khác ở Liên Xô, bị đối xử không công bằng. Chỉ có một điều tôi có thể nói ở đây: hàng triệu người thuộc nhiều dân tộc khác nhau cũng đã phải chịu đựng, và họ chủ yếu là người Nga.

Người Tatar ở Crimea đã quay trở về với quê hương của mình. Tôi tin tưởng rằng chúng ta có thể đạt được tất cả những quyết định cần thiết về mặt pháp lý và chính trị để hoàn thành việc trả lại danh dự cho người Tatar, để họ được hưởng quyền lợi của mình và được trong sạch thanh danh.

Chúng ta hết mực tôn trọng người dân của tất cả các dân tộc đang sinh sống trên mảnh đất Crimea. Đây là ngôi nhà chung của họ, quê hương của họ, và sẽ là một việc làm đúng đắn khi 3 ngôn ngữ quốc gia tại Crimea - tiếng Nga, tiếng Ukraine và tiếng Tatar - được bình đẳng như nhau. Tôi tin người dân địa phương ủng hộ điều này.

Thưa các bạn,

Trong tâm trí và trái tim của nhân dân, Crimea vẫn luôn là một phần không thể tách rời của nước Nga. Niềm tin vững chắc ấy được xây dựng dựa trên sự thật và công lý, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, qua thời gian, trong mọi trường hợp, bất chấp tất cả những thay đổi mạnh mẽ của đất nước chúng ta suốt thế kỉ 20.

Sau cuộc cách mạng, những đảng viên Xô Viết - vì một vài lý do nào đó - đã đem một phần rộng lớn lãnh thổ ở miền Nam nước Nga trong quá khứ cho nước Cộng hoà Ukraine. Điều này được thực hiện mà không hề cân nhắc tới đặc điểm tôn giáo của cư dân ở đây. Ngày nay, những khu vực đó hình thành nên vùng đông nam Ukraine. Sau đó, vào năm 1954, quyết định chuyển giao vùng lãnh thổ Crimea cho Ukraine đã được đưa ra, rồi cả Sevastopol, bất chấp thực tế rằng thành phố này trực thuộc liên bang. Đây là sáng kiến cá nhân của người lãnh đạo đảng, ông Nikita Khrushchev. Lý do đằng sau quyết định của ông... - xin để dành cho các sử gia làm rõ.

Vấn đề bây giờ là quyết định này đã vi phạm trắng trợn các quy tắc về hiến pháp được đặt ra ngay từ thời đó. Quyết định này đã được lén lút đưa ra. Đương nhiên, không ai thèm hỏi tới người dân Crimea và Sevastopol. Họ phải đối diện với thực tế. Dân chúng hẳn nhiên đã thắc mắc tại sao Crimea lại bất ngờ trở thành một phần của Ukraine. Nhưng xét toàn diện - và chúng ta cũng phải đề cập tới điều này một cách rõ ràng, tất cả chúng ta đều biết - rằng quyết định này chỉ là hình thức, bởi lãnh thổ đã được chuyển giao bên trong biên giới của một nhà nước duy nhất. Khi ấy, thật không thể tưởng tượng rằng Ukraine và Nga lại tách ra và trở thành 2 quốc gia riêng biệt. Thế mà điều đó đã xảy ra.

Thật không may là điều dường như không thể xảy ra lại trở thành hiện thực. Liên Xô sụp đổ. Mọi việc diễn ra nhanh tới mức gần như không có ai kịp nhận ra những sự việc này đột ngột tới mức nào và hậu quả của chúng là gì. Rất nhiều người, cả ở Nga và Ukraine cũng như tại các nước cộng hoà khác, hi vọng rằng Cộng đồng các Quốc gia Độc lập được thành lập vào thời điểm đó sẽ trở thành một hình thức nhà nước liên bang mới. Họ đã được nghe nói về đồng tiền chung, không gian kinh tế thống nhất, lực lượng vũ trang chung. Tuy nhiên, tất cả vẫn chỉ là hứa suông, trong khi đó, đất nước lớn đã tiêu tan. Chỉ khi Crimea trở thành một phần của quốc gia khác, Nga mới nhận ra rằng mình không đơn giản chỉ là bị lấy trộm - mình đã bị cưỡng đoạt.

Đồng thời, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng bằng cách phô trương về chủ quyền, chính bản thân Nga đã góp phần khiến Liên Xô sụp đổ. Và khi sự sụp đổ đó được hợp pháp hoá, tất cả lại quên mất Crimea và Sevastopol - căn cứ chính của Hạm đội Biển Đen. Hàng triệu người đã đi ngủ ở một quốc gia và rồi tỉnh dậy tại một quốc gia khác, chỉ qua một đêm đã trở thành dân tộc thiểu số tại một nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ. Còn nước Nga lại trở thành một trong những dân tộc lớn nhất, nếu không muốn nói là nhóm dân tộc lớn nhất trên thế giới, bị chia cắt bởi các đường biên giới.

Giờ đây, sau nhiều năm, tôi đã nghe thấy người dân Crimea nói rằng thời điểm năm 1991, họ bị trao đi như một bao tải khoai tây. Khó mà có thể không đồng ý với điều này. Thế còn vị thế của Nga? Nước Nga thì sao? Phải miễn cưỡng chấp nhận tình thế. Khi đó, quốc gia này đã trải qua những thời kỳ khó khăn tới mức thực tế là không còn có khả năng bảo vệ lợi ích của chính mình. Tuy nhiên, nhân dân đã không thoả hiệp với sự bất công kì quặc đó. Trong ngần ấy năm, người dân và nhiều nhân vật của công chúng đã lật lại vấn đề này, họ nói rằng về mặt lịch sử, Crimea là lãnh thổ của Nga, Sevastopol là một thành phố của Nga. Đúng vậy, từ trong trái tim và tâm trí của mình, tất cả chúng ta đều biết điều đó, nhưng chúng ta phải bắt đầu từ thực tế sẵn có và xây dựng mối quan hệ láng giềng tốt đẹp với quốc gia Ukraine độc lập trên một nền tảng mới. Trong khi đó, quan hệ của chúng ta với Ukraine, với những người dân Ukraine anh em, vẫn luôn và sẽ mãi đóng vai trò quan trọng hàng đầu.

Hôm nay, chúng ta có thể nói về điều này một cách cởi mở, và tôi muốn chia sẻ với các bạn một số chi tiết về các thỏa thuận đã được ký kết vào đầu những năm 2000. Khi đó, Tổng thống Ukraine là ngài Kuchma đã đề nghị tôi xúc tiến quá trình phân định biên giới Nga - Ukraine. Lúc đó, quá trình này trên thực tế đang rơi vào bế tắc. Nga coi như đã công nhận Crimea là một phần của Ukraine, nhưng chưa có thỏa thuận về phân định biên giới. Dù tình hình rất phức tạp, nhưng tôi đã ngay lập tức chỉ thị cho các cơ quan chính phủ Nga đẩy nhanh việc lập hồ sơ về biên giới, để mọi người đều hiểu rõ rằng bằng việc chấp thuận phân định đường biên, chúng ta thừa nhận về cả pháp lý và thực tế rằng Crimea là lãnh thổ của Ukraine, và do đó có thể khép lại vấn đề.

Chúng ta đã giúp đỡ Ukraine không chỉ trong vấn đề Crimea, mà còn trong cả một vấn đề phức tạp như biên giới lãnh hải ở Biển Azov và eo biển Kerch. Những gì chúng ta làm đều vì coi mối quan hệ tốt đẹp với Ukraine là điều quan trọng nhất đối với chúng ta, và để họ không mắc kẹt trong bế tắc của các tranh chấp lãnh thổ. Chúng ta đã mong đợi rằng Ukraine vẫn là láng giềng tốt. Chúng ta cũng đã hy vọng rằng công dân Nga và người nói tiếng Nga ở Ukraine, đặc biệt là các vùng Đông Nam và Crimea có thể sống trong một đất nước văn minh, dân chủ và hữu nghị, nơi có thể bảo vệ các quyền lợi của họ theo chuẩn mực luật pháp quốc tế.

Thế nhưng, tình hình lại không diễn ra như vậy. Hết lần này đến lần khác, người ta đã rắp tâm tước đoạt những di sản lịch sử và thậm chí cả ngôn ngữ của người Nga, đẩy họ đến với sự đồng hóa ép buộc. Hơn thế, người Nga, cũng như những công dân khác của Ukraine đang phải chịu đựng cuộc khủng hoảng nhà nước và chính trị vốn đã làm rung chuyển quốc gia này từ 20 năm qua.

Tôi hiểu vì sao người Ukraine muốn thay đổi. Họ đã có đủ bộ máy nắm quyền lực trong suốt những năm tháng độc lập của Ukraine. Các Tổng thống, Thủ tướng và đại biểu quốc hội đã thay đổi, nhưng thái độ của họ đối với đất nước và người dân của mình thì vẫn vậy. Họ bòn rút quốc gia, đấu đá lẫn nhau để tranh giành quyền lực, tài sản và dòng ngoại tệ mà chẳng mảy may quan tâm tới dân thường. Họ không hề băn khoăn vì sao hàng triệu người dân Ukraine không nhìn thấy triển vọng tại quê nhà và phải ra nước ngoài làm việc qua ngày. Tôi muốn nhấn mạnh điều này: họ không chuyển tới Thung lũng Silicon, mà lại làm công nhân công nhật. Chỉ tính riêng năm ngoái, đã có gần 3 triệu người tìm những công việc như thế này tại Nga. Theo một vài nguồn tin, năm 2013, tổng thu nhập của họ ở Nga là hơn 20 tỉ USD, chỉ bằng 12% GDP của Ukraine.

Tôi muốn nhắc lại rằng, tôi thấu hiểu những người dân đổ ra quảng trường Maidan, mang theo các khẩu hiệu hoà bình, phản đối tham nhũng, quản lý đất nước không hiệu quả và đói nghèo. Quyền được biểu tình hoà bình, các cuộc bầu cử và thủ tục mang tính dân chủ tồn tại vì một mục đích duy nhất là thay thế quan chức không làm hài lòng người dân. Tuy nhiên, những người đứng sau các diễn biến mới nhất ở Ukraine lại có kế hoạch hành động khác: họ đang chuẩn bị cho một sự tiếm quyền khác đối với chính phủ, họ muốn thâu tóm quyền lực và sẽ không dừng lại. Họ viện tới khủng bố, giết người, bạo loạn. Những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tân phát xít, những kẻ ghét Nga và chống đối người Xê-mít đã thực hiện cuộc đảo chính này. Họ tiếp tục làm như vậy tại Ukraine cho đến ngày nay.

Cái gọi là chính quyền mới đã bắt đầu bằng việc đưa ra một dự luật sửa đổi chính sách về ngôn ngữ, một hành vi vi phạm trực tiếp tới quyền lợi của các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, họ ngay lập tức phải chịu sự trừng phạt từ các nhà tài trợ nước ngoài của chính mình - những người được gọi là chính trị gia. Phải thừa nhận rằng các cố vấn của chính phủ đương thời thông minh và biết rõ những nỗ lực nhằm xây dựng một quốc gia Ukraine thực thụ sẽ dẫn tới đâu. Dự luật đã bị gạt sang một bên, song rõ ràng là sẽ được thực thi trong tương lai. Không có bất cứ điều gì về vấn đề này được nhắc tới, hoặc có thể là chúng ta có trí nhớ ngắn hạn. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng tâm địa của những kẻ kế thừa tư tưởng của Bandera, một đồng loã của Hitler trong Thế chiến II.

Rõ ràng là tại Ukraine hiện nay, không có người nắm quyền hành hợp pháp, không có ai để bàn chuyện. Nhiều cơ quan chính phủ đã bị những kẻ lừa đảo tiếm quyền, song chúng lại không được kiểm soát đất nước, và bản thân chúng - tôi muốn nhấn mạnh điều này - thường xuyên bị những kẻ cực đoan điều khiển. Trong một vài trường hợp, bạn cần có giấy phép đặc biệt từ chiến binh Maidan để gặp gỡ các Bộ trưởng nhất định trong chính phủ hiện tại. Không phải chuyện đùa - đó là thực tế.

Những người phản đối cuộc đảo chính ngay lập tức bị đe doạ đàn áp. Tất nhiên, người đầu tiên chịu trận ở đây là Crimea, một Crimea nói tiếng Nga. Vì vậy, người dân Crimea và Sevastopol đã tìm tới Nga để mong được giúp đỡ trong việc bảo vệ quyền lợi và cuộc sống của mình, ngăn chặn các sự việc đã và vẫn đang tiếp diễn ở Kiev, Donetsk, Kharkov cùng các thành phố khác của Ukraine.

Hiển nhiên là chúng ta không thể để cho những lời kêu gọi này bị phớt lờ; chúng ta không thể bỏ mặc Crimea và người dân ở đó trong cơn hoạn nạn. Đối với chúng ta, đó là sự phản bội.

Trước hết, chúng ta đã phải tạo điều kiện để lần đầu tiên trong lịch sử, người dân ở Crimea có thể bày tỏ tự do ý chí của mình một cách hòa bình. Thế nhưng, chúng ta đã được nghe gì từ những người bạn Tây Âu và Bắc Mỹ? Họ nói chúng ta đang vi phạm các tiêu chuẩn luật pháp quốc tế.

Thứ nhất, thật tốt là ít nhất họ cũng nhớ rằng vẫn tồn tại một thứ gọi là luật pháp quốc tế - muộn dù sao còn hơn không.

Thứ hai, và quan trọng nhất là – chính xác thì chúng ta đang vi phạm điều gì? Đúng, Tổng thống Liên bang Nga đã nhận được sự cho phép của Thượng viện để sử dụng lực lượng vũ trang ở Ukraine. Nhưng nghiêm túc mà nói, chưa có ai hành động trên sự cho phép đó. Quân đội Nga chưa từng tiến vào Crimea. Họ đã hiện diện ở đây từ trước, theo đúng khuôn khổ của một hiệp định quốc tế. Đúng, chúng ta đã tăng cường lực lượng tại đây. Nhưng, đây là điều mà tôi muốn tất cả mọi người nghe và hiểu: Chúng ta đã không vượt quá giới hạn quân số của lực lượng vũ trang tại Crimea, vốn được quy định là 25.000 người. Vì không cần phải làm như vậy.

Tiếp theo. Khi tuyên bố độc lập và quyết định tổ chức trưng cầu dân ý, Hội đồng Tối cao Crimea đã dựa vào Hiến chương Liên Hợp Quốc, trong đó khẳng định các quốc gia đều có quyền tự quyết. Tiện đây, tôi muốn nhắc các bạn nhớ rằng, khi tách khỏi Liên bang Xô Viết, Ukraine cũng làm đúng như vậy, chính xác đến từng từ. Ukraine đã sử dụng quyền này, nhưng người dân ở Crimea thì lại bị khước từ. Tại sao vậy?

Thêm nữa, chính quyền Crimea đã dựa vào một tiền lệ rất nổi tiếng là Kosovo - tiền lệ do những người bạn phương Tây của chúng ta chính tay tạo ra trong một tình huống hoàn toàn tương tự, khi họ công nhận rằng việc đơn phương chia cắt Kosovo khỏi Serbia, chính xác như những gì Crimea đang làm hiện nay, là hợp pháp và không cần bất kỳ sự cho phép nào từ chính quyền trung ương. Theo đúng Điều 2, Chương 1 của Hiến chương Liên Hợp Quốc, Tòa án quốc tế của Liên Hợp Quốc đã đồng ý với cách tiếp cận này và đã đề những ghi chú (mà tôi trích dẫn lại sau đây) trong phán quyết ngày 22/7/2010: “Không có điều khoản cấm chung nào từ thông lệ của Hội đồng Bảo an liên quan đến việc tuyên bố độc lập” và “Luật pháp quốc tế không bao hàm quy định cấm tuyên bố độc lập”. Hoàn toàn dễ hiểu, như họ nói.

Tôi không muốn dựa vào các trích dẫn, nhưng trong trường hợp này, tôi không thể làm khác. Đây là một trích dẫn từ một tài liệu chính thức khác: Bản tường trình của Mỹ ngày 17/4/2009 gửi đến cùng Tòa án quốc tế của Liên Hợp Quốc liên quan đến các buổi điều trần về Kosovo. Một lần nữa, tôi xin lại được trích dẫn: “Việc tuyên bố độc lập có thể, và thường là vi phạm luật pháp trong nước. Tuy nhiên, điều đó không khiến nó vi phạm luật pháp quốc tế”. Hết trích dẫn.

Họ đã viết như vậy, đem phổ biến khắp thế giới, được mọi người đồng ý, và giờ họ lại tỏ ra bất bình. Mà về cái gì chứ? Hành động của người dân Crimea hoàn toàn phù hợp với các chỉ dẫn trên, như nó vốn vậy. Hãy thử nghĩ rằng người Albani ở Kosovo (chúng ta hoàn toàn tôn trọng họ) được phép làm như vậy. Còn người Nga, người Ukraine và người Tatar ở Crimea thì không. Một lần nữa, ai cũng sẽ thắc mắc tại sao.

Chúng ta vẫn nghe Mỹ và Tây Âu nói rằng Kosovo là một trường hợp đặc biệt. Điều gì đã khiến nó trở nên đặc biệt trong mắt những người bạn này của chúng ta? Hóa ra đó là vì cuộc xung đột ở Kosovo đã khiến rất nhiều người thương vong. Điều này có phải một lập luận có cơ sở pháp lý? Phán quyết của Tòa án quốc tế không hề nói như vậy. Nó thậm chí còn không phải là một thứ tiêu chuẩn kép; nó là kiểu lý sự cùn, ấu trĩ kinh ngạc. Con người ta không nên đổi trắng thay đen, cố gắng một cách thô thiển như vậy để khiến mọi thứ thuận theo lợi ích của mình. Nếu cứ theo logic này, chúng ta sẽ phải chắc chắn mọi cuộc xung đột đều dẫn đến tổn thất về sinh mạng.

Tôi sẽ nói rõ ràng rằng - nếu lực lượng tự vệ địa phương ở Crimea không thể kiểm soát được tình hình thì sẽ có thương vong. May mắn là điều này không xảy ra. Không có bất cứ cuộc đụng độ vũ trang nào và không có thương vong. Bạn nghĩ vì sao lại như vậy? Câu trả lời rất đơn giản: bởi nó rất khó, thực tế là không thể chống lại ý chí của người dân. Tại đây, tôi muốn cám ơn quân đội Ukraine - 22.000 người lính vũ trang đến tận răng. Tôi muốn cám ơn binh sĩ, những người đã kiềm chế một cuộc đổ máu và không nhuộm đỏ quân phục của mình bằng máu.

Cũng liên quan tới việc này, một vài ý khác đã nảy ra trong tâm trí. Họ liên tục nói về cái được gọi là sự can thiệp của Nga ở Crimea, một cuộc xâm lược. Điều này thực lạ tai. Tôi không thể nhớ ra bất cứ một cuộc can thiệp quân sự nào trong lịch sử mà lại không có súng nổ và thương vong.

Thưa các bạn,

Như một tấm gương, tình hình ở Ukraine phản ánh những gì đang và đã diễn ra trên thế giới trong một vài thập kỷ qua. Sau khi trạng thái lưỡng cực tan rã, chúng ta không còn sự ổn định nữa. Các thể chế quốc tế chủ chốt không những không mạnh hơn, mà ngược lại, trong nhiều trường hợp còn suy thoái một cách đáng buồn. Các đối tác phương Tây của chúng ta, dẫn đầu là Mỹ thích dùng “quy tắc của súng đạn” hơn là luật pháp quốc tế. Họ đi đến chỗ tin rằng họ đặc biệt và có đặc quyền, rằng họ có thể quyết định vận mệnh thế giới, rằng chỉ họ mới luôn luôn đúng. Họ làm bất cứ thứ gì họ thích: chỗ này, chỗ kia. Họ sử dụng vũ lực chống lại các quốc gia có chủ quyền, xây dựng các liên minh dựa trên nguyên tắc “Nếu anh không theo tôi nghĩa là anh chống lại tôi”. Để cho sự xâm lược này có vẻ hợp pháp, họ ép buộc các tổ chức quốc tế phải đưa ra các nghị quyết. Và nếu vì một vài lý do nào đó mà cách này không hiệu quả, thì họ phớt lờ luôn cả Liên Hợp Quốc lẫn Hội đồng Bảo an.

Điều này đã xảy ra ở Nam Tư, năm 1999, hẳn chúng ta đều còn nhớ rõ. Dù chính mắt tôi chứng kiến, thật khó mà tin rằng, vào cuối thế kỷ 20 mà một thủ đô ở châu Âu, Belgrade, lại chìm dưới các cuộc tấn công bằng tên lửa trong vài tuần, và sau đó là đến cuộc can thiệp vũ trang thật sự. Có nghị quyết nào của Hội đồng Bảo an về vấn đề này lại cho phép những hành động như vậy? Không hề. Và rồi họ đánh Afghanistan, Iraq, vi phạm trắng trợn nghị quyết của Hội đồng Bảo an về Lybia, khi thay vì chỉ áp đặt cái gọi là vùng cấm bay thì họ đồng thời dội bom luôn xuống đó.

Đã có một chuỗi các cuộc “cách mạng màu” được giật dây. Chắc chắn là người dân ở các nước nơi diễn ra các sự kiện này đã chán ngán chế độ độc tài và nghèo khổ, không có tương lai. Nhưng những tình cảm này đã bị lợi dụng một cách bất nhẫn. Các tiêu chuẩn được áp đặt lên các nước này mà không hề phù hợp với lối sống, truyền thống và văn hóa của người dân. Và hậu quả là thay vì dân chủ, tự do là hỗn loạn, bạo lực bùng phát và hàng chuỗi biến động. Mùa xuân Ả Rập đã biến thành Mùa đông Ả Rập.

Một tình huống tương tự đã diễn ra ở Ukraine. Năm 2004, để đưa một ứng cử viên mà họ muốn vào cuộc bầu cử Tổng thống, họ đã nghĩ ra một thứ gọi là cuộc bầu cử vòng ba, vốn không được quy định trong luật. Nó thật lố bịch và là sự nhạo báng đối với Hiến pháp. Và hôm nay, họ lại tung ra một lực lượng dân quân được tổ chức và trang bị hùng hậu.

Chúng ta hiểu điều gì đang diễn ra. Chúng ta hiểu rằng những hành động này là nhằm chống lại Ukraine và nước Nga, chống lại sự hội nhập Liên minh Á-Âu. Và tất cả diễn ra khi Nga đang nỗ lực đối thoại với các nước phương Tây. Chúng ta vẫn kiên trì đề xuất hợp tác trên mọi vấn đề chủ chốt. Chúng ta muốn củng cố lòng tin và hướng tới quan hệ bình đẳng, cởi mở và công bằng. Nhưng chúng ta đã không thấy những bước đi tương tự từ phía bên kia.

Ngược lại, họ đã nói dối chúng ta nhiều lần, đưa ra nhiều quyết định sau lưng chúng ta, đặt chúng ta trước những thực tế đã rồi. Điều này đã xảy ra cùng với sự mở rộng của NATO sang phía Đông, cũng như việc họ triển khai hạ tầng quân sự ở biên giới của chúng ta. Họ vẫn tiếp tục nhắc đi nhắc lại một luận điệu rằng: “Thôi nào, việc này chẳng liên quan gì đến các anh đâu”. Nói thế thì dễ dàng quá.

Điều này cũng đã xảy ra khi họ thiết lập một hệ thống phòng thủ tên lửa. Bất chấp mọi sự lo ngại của chúng ta, dự án này vẫn được thúc đẩy. Nó xảy ra cùng với sự chậm trễ lê thê trong đối thoại về các vấn đề visa, cam kết cạnh tranh công bằng và tham gia tự do vào thị trường toàn cầu.

Hôm nay, chúng ta đang bị đe dọa trừng phạt, nhưng chúng ta vốn cũng đã trải qua nhiều lần bị kiềm tỏa, những lần gây ảnh hưởng đáng kể đến chúng ta, nền kinh tế và đất nước chúng ta. Ví dụ, ngay trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Mỹ và sau đó là các nước khác đã có một danh sách dài các công nghệ và thiết bị hạn chế bán cho Liên Xô, lập danh sách của Ủy ban phối hợp kiểm soát xuất khẩu đa phương. Hiện nay, trên danh nghĩa, họ đã xóa bỏ những quy định này, nhưng đó chỉ là danh nghĩa. Còn trên thực tế, nhiều hình thức hạn chế vẫn còn hiệu lực.

Một cách ngắn gọn, chúng ta có đủ lý do để cho rằng chính sách phong tỏa đáng hổ thẹn này, vốn đã kéo dài từ thế kỷ 18, 19, 20, vẫn còn được duy trì đến tận ngày nay. Họ luôn tìm mọi cách dồn chúng ta vào góc tường, bởi chúng ta có một vị thế độc lập, bởi chúng ta duy trì vị thế đó, và bởi chúng ta gọi mọi thứ như nó vốn có và không tham gia vào những trò đạo đức giả. Ở Ukraine, các đối tác phương Tây của chúng ta đã vượt qua giới hạn, họ đùa với lửa và hành động một cách vô trách nhiệm, thiếu chuyên nghiệp.

Sau hết, họ hoàn toàn ý thức được rằng đang có hàng triệu người Nga sống ở Ukraine và Crimea. Hẳn rằng họ phải thiếu bản năng chính trị và lương tri mới không lường được hậu quả từ những hành động của mình. Nước Nga đã rơi vào một vị thế không thể thoái lui. Nếu anh lấy hết sức ép một cái lò xo, nó sẽ bật lại rất mạnh. Hãy luôn nhớ điều này.

Hôm nay, điều bắt buộc là phải chấm dứt cơn cuồng loạn này, gạt bỏ lối khoa trương thời Chiến tranh Lạnh và thừa nhận thực tế hiển nhiên rằng: Nước Nga là một bên tích cực và độc lập trong các vấn đề quốc tế; giống như các nước khác, Nga có các lợi ích quốc gia mà các nước phải tính đến và tôn trọng.

Đồng thời, chúng ta cảm ơn tất cả những người đã thấu hiểu các hành động của chúng ta ở Crimea. Chúng ta cảm ơn nhân dân Trung Quốc, các nhà lãnh đạo của họ luôn xem xét tình hình ở Ukraine và Crimea trong bối cảnh chính trị và lịch sử đầy đủ. Chúng ta cảm kích sự thận trọng và khách quan của Ấn Độ.

Hôm nay, tôi muốn nhắn nhủ nhân dân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, những người ngay từ ngày lập quốc và thông qua bản Tuyên ngôn Độc lập, vẫn luôn kiêu hãnh đặt tự do lên trên hết thảy. Phải chăng mong muốn của người dân Crimea được tự do lựa chọn vận mệnh cho mình không phải là một giá trị như vậy? Xin hãy hiểu chúng tôi.

Tôi tin rằng những người dân châu Âu, mà đầu tiên và trước hết là người Đức cũng sẽ hiểu tôi. Xin cho tôi được nhắc các bạn rằng trong quá trình tham vấn chính trị về việc thống nhất Đông Đức và Tây Đức, một số nước khi đó và hiện nay vẫn là đồng minh của Đức, đã không ủng hộ việc thống nhất. Thế nhưng, nước Nga đã bày tỏ sự ủng hộ dứt khoát đối với ý nguyện thống nhất thành thật và mãnh liệt của người Đức. Tôi tin rằng các bạn chưa quên điều đó, và tôi mong rằng các công dân Đức sẽ ủng hộ khát vọng khôi phục sự thống nhất của người Nga, của nước Nga lịch sử.

Tôi cũng muốn nói với nhân dân Ukraine. Tôi chân thành mong muốn các bạn hiểu chúng tôi: Chúng tôi không bao giờ muốn làm tổn hại các bạn theo bất cứ cách nào, cũng không bao giờ muốn làm làm tổn thương lòng yêu nước của các bạn, không như những người sẵn sàng hy sinh sự thống nhất của Ukraine vì các tham vọng chính trị. Họ giương khẩu hiệu ca ngợi sự vĩ đại của Ukraine, nhưng cũng chính họ là những người làm mọi thứ để chia rẽ đất nước này. Những người bạn Ukraine thân mến, tôi mong các bạn hãy nghe tôi. Xin đừng tin những ai muốn các bạn sợ hãi nước Nga, kêu gào rằng rồi các vùng khác của Ukraine cũng theo chân Crimea. Chúng tôi không hề muốn chia cắt Ukraine. Chúng tôi không cần điều đó. Còn về Crimea, đó đã và sẽ mãi mãi là vùng đất của người Tatar, người Ukraine và người Nga.

Tôi xin được nhắc lại rằng, như thực tế đã có từ nhiều thế kỷ nay, Crimea sẽ là mái nhà chung của tất cả những người sống ở đó.

Crimea là di sản lịch sử chung của chúng ta và là một nhân tố quan trọng trong sự ổn định khu vực. Và vùng đất có ý nghĩa chiến lược này nên là một phần của một quốc gia ổn định và vững mạnh mà hiện chỉ có thể là nước Nga. Nếu không, thưa các bạn (tôi đang nói với cả nước Nga và Ukraine), các bạn và chúng tôi, người Nga và người Ukraine, có thể mất hoàn toàn Crimea. Và việc này có thể xảy ra trong một tương lai rất gần. Xin hãy suy nghĩ về điều đó.

Cũng xin hãy để tôi lưu ý rằng, chúng ta đã từng nghe Kiev tuyên bố Ukraine sẽ sớm gia nhập NATO. Điều này có ý nghĩa như thế nào với Crimea và Sevastopol trong tương lai? Nó có thể có nghĩa là hải quân NATO sẽ ở ngay đây, trong thành phố là niềm vinh quang của quân đội Nga. Và viễn cảnh này có thể tạo ra một mối đe dọa không hề tưởng tượng mà hoàn toàn có thật đối với toàn bộ miền Nam nước Nga. Tất cả những điều đáng ra có thể trở thành hiện thực này không xảy ra là nhờ sự lựa chọn của người dân Crimea, và tôi muốn cảm ơn họ về điều đó.

Nhưng xin cũng để tôi nói rằng chúng ta không chống lại sự hợp tác với NATO, chắc chắn không phải là như vậy. Nhưng với tất cả quy trình nội bộ trong tổ chức, NATO vẫn là một liên minh quân sự, và chúng ta chống lại việc có một liên minh quân sự đặt căn cứ ngay ở sân sau của chúng ta, hay trên lãnh thổ lịch sử của chúng ta. Tôi không thể tưởng tượng cảnh chúng ta đến Sevastopol để thăm các thủy thủ NATO. Dĩ nhiên phần lớn họ là những chàng trai tuyệt vời. Nhưng sẽ tốt hơn nếu họ đến thăm chúng ta, làm khách của chúng ta, hơn là ngược lại.

Hãy để tôi nói một cách thẳng thắn rằng phải nhìn những gì đang diễn ra ở Ukraine vào lúc này, nhìn người dân gồng mình chịu đựng và thấp thỏm lo không biết điều gì sẽ diễn ra hôm nay, điều gì sẽ đến vào ngày mai là điều thật sự dày vò trái tim chúng ta. Sự lo lắng của người Nga là dễ hiểu, vì đơn giản, chúng ta không chỉ là những láng giềng gần gũi, mà như tôi đã nói rất nhiều lần, chúng ta là một dân tộc. Kiev là mẹ của các thành phố Nga. Người Rus cổ đại là tổ tiên chung của chúng ta, và chúng ta không thể sống thiếu nhau.

Hãy để tôi nói thêm một điều khác nữa. Hàng triệu người Nga và người nói tiếng Nga đang sống ở Ukraine, và sẽ tiếp tục là như vậy. Nước Nga sẽ luôn luôn bảo vệ các lợi ích của mình bằng mọi biện pháp chính trị, ngoại giao, pháp lý. Nhưng hơn hết, việc đảm bảo quyền và lợi ích của những người dân này, đảm bảo rằng họ được bảo vệ đầy đủ chính là lợi ích của Ukraine. Điều này là sự đảm bảo cho sự ổn định và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine.

Chúng ta mong muốn làm bạn với Ukraine, mong muốn Ukraine là một đất nước vững mạnh, có chủ quyền và tự chủ. Hơn hết, Ukraine là một trong những đối tác lớn nhất của chúng ta. Hai bên có những dự án chung và tôi tin tưởng vào sự thành công của các dự án này, bất chấp những khó khăn hiện tại. Quan trọng nhất là, chúng ta muốn hòa bình và hòa hợp dân tộc ngự trị ở Ukraine, và chúng ta sẵn sàng hợp tác với các nước khác để hỗ trợ và tạo thuận lợi cho quá trình này. Nhưng như tôi đã nói, chỉ có người dân Ukraine mới có thể đưa mọi việc vào khuôn khổ.

Nhân dân Crimea và Sevastopol, toàn thể nước Nga ngưỡng mộ chí khí, sự dũng cảm và phẩm giá của các bạn. Chính các bạn đã quyết định tương lai Crimea. Trong những ngày này, chúng ta gần nhau hơn bao giờ hết, ủng hộ lẫn nhau. Đó là tình đoàn kết chân thành. Chính ở những bước ngoặt lịch sử như thế này mà một quốc gia có thể chứng tỏ sự trưởng thành và sức mạnh tinh thần. Người Nga đã cho thấy những phẩm chất này thông qua sự ủng hộ mạnh mẽ dành cho các đồng bào mình.

Vị thế chính sách đối ngoại của Nga trong vấn đề này vững chãi chính nhờ vào ý chí của hàng triệu người dân chúng ta, sự thống nhất của cả nước và sự hỗ trợ của các lực lượng quần chúng và chính trị trong nước. Tôi muốn cảm ơn tất cả các bạn về tinh thần ái quốc này, tất cả, không trừ một ai. Chúng ta cần tiếp tục duy trì sự thống nhất này để giải quyết các nhiệm vụ đang chờ chúng ta trên con đường phía trước.

Chắc chắn chúng ta sẽ còn phải đối phó với những sự chống đối từ bên ngoài. Nhưng đây là một quyết định mà chúng ta cần phải làm cho chính mình. Liệu chúng ta đã sẵn sàng kiên định bảo vệ các lợi ích quốc gia, hay sẽ buông xuôi, lui bước? Một số chính trị gia phương Tây đã hăm dọa chúng ta không chỉ bằng các biện pháp trừng phạt và còn bằng viễn cảnh gia tăng các vấn đề nghiêm trọng trong nước. Tôi muốn biết chính xác thì họ nghĩ gì trong đầu: Sử dụng những kẻ phản quốc, hay hy vọng sẽ đẩy chúng ta vào một tình thế kinh tế xã hội đi xuống để kích động sự bất bình của người dân? Chúng ta chắc chắn sẽ đáp trả thích đáng các tuyên bố vô trách nhiệm và đầy khiêu khích đó...

Thưa các bạn,

Tôi hiểu người dân Crimea, những người lựa chọn các phương án rõ ràng nhất trong cuộc trưng cầu dân ý: Crimea nên thuộc Ukraine hay thuộc Nga?. Chúng tôi có thể nói chắc chắn rằng khi tiến hành xây dựng câu hỏi, giới chức Crimea và Sevastopol, các nhà lập pháp, đã đặt sang một bên các nhóm và lợi ích chính trị để chỉ lấy lợi ích cơ bản của người dân làm nền tảng cho công việc của mình. Tình hình kinh tế, chính trị, dân số và lịch sử cụ thể của Crimea có thể khiến cho bất cứ một lựa chọn nào khác được đề xuất sẽ chỉ mang tính tạm thời, dễ đổ vỡ, và không thể tránh khỏi việc làm xấu thêm tình hình - điều này sẽ để lại hậu quả vô cùng tai hại đối với cuộc sống của người dân. Do đó, người dân Crimea đã quyết định trả lời một cách chắc chắn và cương quyết, không hề lưỡng lự. Cuộc trưng cầu dân ý này công bằng và minh bạch, người dân Crimea đã thể hiện ý muốn của họ theo một cách rõ ràng, đầy thuyết phục, và họ khẳng định họ muốn về với Nga.

Giờ đây Nga cũng sẽ phải đưa ra một quyết định khó khăn, cân nhắc tới nhiều yếu tố khác nhau, cả trong và ngoài nước. Người dân Nga ở đây nghĩ gì? Tại đây, cũng giống như tại bất cứ một quốc gia dân chủ nào khác, công chúng có quan điểm khác nhau, và tôi muốn chỉ ra rằng tuyệt đại đa số người dân công khai ủng hộ những gì đang diễn ra.

Các cuộc thăm dò dư luận gần đây nhất được tiến hành tại Nga cho hay, 95% người dân nghĩ rằng Nga nên bảo vệ quyền lợi của người Nga cũng như của các tộc người khác sinh sống tại Ukraine - 95% tổng số dân cư của chúng ta. Hơn 83% nghĩ rằng Nga nên làm vậy ngay cả khi nó sẽ làm phức tạp mối quan hệ của chúng ta với một vài các quốc gia khác. 86% người dân chúng ta vẫn coi Crimea thuộc lãnh thổ Nga và là một phần đất đai của quốc gia chúng ta. Và một con số đặc biệt quan trọng khác, hoàn toàn phù hợp với kết quả của cuộc trưng cầu dân ý tại Crimea: gần 92% người dân ủng hộ sự tái hợp nhất của Crimea về Nga.

Như vậy, chúng ta thấy rằng đa số người Crimea và đại đa số người dân Liên bang Nga ủng hộ sự tái hợp nhất nước cộng hoà tự trị Crimea và thành phố Sevastopol về Nga.

Vấn đề giờ đây là quyết định chính trị của riêng Nga, bất cứ quyết định nào ở đây cũng chỉ dựa trên ý chí của người dân, bởi nhân dân là nền tảng cơ bản của tất cả mọi chính quyền.

Thưa các thành viên Hội đồng Liên bang, đại biểu Duma Quốc gia, người dân Nga, cư dân Crimea và Sevastopol, hôm nay, thuận theo ý dân, tôi đệ trình lên Quốc hội Liên bang, yêu cầu xem xét Luật Hiến pháp về việc thành lập hai chủ thể liên bang của Nga: Cộng hoà Crimea và thành phố Sevastopol, đồng thời phê chuẩn công ước công nhận Crimea và Sevastopol thuộc Liên bang Nga - họ đã sẵn sàng ký kết.

Tôi tin tưởng vào sự ủng hộ của các bạn.

Nguồn: Soha

Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam

Trở về trang chính

Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống Thơ cho con
 

Thursday, March 20, 2014

Đọc lại và suy ngẫm


VIỆT NAM HỒ CHÍ MINH

“..Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy..”
- Trích "Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng", NXB Khoa học xã hội, H.1996, tr. 152.
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
(xem tiếp)

Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam

Trở về trang chính

Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống Thơ cho con
 
 

Monday, March 17, 2014

Dưới chân Thầy: trang văn ám ảnh


ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM.  Cô Trần Thị Lệ ở Trường Đại học Nông Lâm Huế chuyển cho tôi email của anh Võ Tá Hân bài viết "Dưới chân Thầy" gửi đến: bio-vn@yahoogroups.com. Bức thư đã được đăng trên http://beta.vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/duoi-chan-thay-2964122.html . Bài viết rất hay và có ý nghĩa. Tôi chép về để đọc lại và suy ngẫm. Anh binh nguyen<binh_nguyen98@yahoo.com viết:
Trong bài này tôi nhận thấy anh Hân có một nhận xét nổi bật về cách tìm người hợp tác của Cụ Kwek : "Cụ Kwek chỉ quan tâm đến những người làm được việc và có đáng tin cậy hay không, chứ tuyệt nhiên không hề chú trọng đến bằng cấp. Dưới trướng của cụ không hề thấy bóng một vị tiến sĩ nào cả vì cụ cho rằng phần đông họ là những lý thuyết gia ". (Điều này) gần giống với nhận xét của một đồng nghiệp nước ngoài (đã nhận xét rằng): cộng đồng người Việt tuy có nhiều Tiến sĩ nhưng tỷ lệ người thành công (làm chủ) trong công nghiệp không cao; thiếu tinh thần mạo hiểm,  hầu hết là làm công ăn lương phải dựa vào một tổ chức có sẵn như nghiên cứu / dạy học trong Ðại học hoặc Kỹ nghệ, nhưng  tính tự ái ("narcissistic personality" - nhân cách ái kỹ -) thì rất cao ...... Mới nghe tôi cũng tự ái (dân tộc) lắm! nhưng nhờ cố gắng tập thói quen lắng nghe nên giữ được sự im lặng để lắng nghe. Theo tôi, nếu suy đi nghĩ lại cho cùng, người Việt Nam chúng ta thiếu một cái gì đó nên bằng hình thức này hay hình thức khác chưa đủ khả năng làm chủ một tổ chức có quy mô lớn mà vẫn phải đi làm thuê ! Có người bạn đã có nhận xét rằng văn hóa và con người Việt Nam chúng ta là nền văn hóa "dây leo"; nếu bám được vào một cái khung nào đó thì khung cao bao nhiêu, ta cũng có thể leo cao bấy nhiêu nhưng (chữ nhưng tai hại) khi không có cái khung nào thì chúng ta chỉ bò lan trên mặt đất chồng chất, đè lên nhau mà không tự đứng cao lên được ! ". Đúng là phải dẹp bỏ tính tự ái, thực sự gắn lý thuyết với thực tiễn mới thành công lớn được.

Dưới chân Thầy

Năm 1994, ông Kwek Hong Png, người sáng lập tập đoàn Hong Leong ở Singapore tạ thế. Ông là một nhân vật xuất chúng và những công trình của Hong Leong đã đóng góp rất nhiều cho sự phồn thịnh của Singapore nhưng ngày nay dường như rất ít người, ngay cả ở Singapore còn biết đến tên ông.

Sinh ra trong một gia đình nghèo ở Phúc Kiến, Trung Quốc, ông bỏ xứ sang Singapore năm 1928 khi mới 17 tuổi với 8 đô trong túi và một chiếc chiếu trên vai. Thế nhưng vào những năm cuối đời thì ông Kwek Hong Png đã được tạp chí Forbes xếp hạng là người giàu nhất Singapore và cũng là một trong những người giàu nhất thế giới.

Khi mới đến Singapore, ông giúp việc trong một cửa hàng bán vật liệu xây dựng với số lương tháng là 5 đô. Mười ba năm sau, dành dụm được chút vốn, ông mở một công ty riêng và mời 3 người em trai từ Phúc Kiến sang Singapore để hợp tác. Từ buôn bán sắt thép xi măng, ông bước sang lĩnh vực sản xuất, bất động sản, tài chính và khách sạn… Người em trai của ông là Kwek Hong Lye được giao trách nhiệm phát triển “mô hình Hong Leong” ở Malaysia để rồi sau này nhánh Hong Leong Malaysia lại trở thành một tập đoàn có tầm cỡ ngang ngửa với Hong Leong Singapore.

Cuối thập niên 1980, ông Kwek bắt đầu nhường dần việc điều hành tập đoàn cho hai người con trai là Kwek Leng Beng và Kwek Leng Joo, và cả hai đã tiếp tục đưa Hong Leong lên một quỹ đạo cao hơn, đặc biệt là việc phát triển mạnh nhánh khách sạn và bành trướng hoạt động ra thị trường quốc tế. Đến tháng 2/2014 tổng tài sản của tập đoàn Hong Leong Singapore đã vượt quá 30 tỷ đô Sing, với hơn 40 nghìn nhân viên hoạt động tại 19 quốc gia trên thế giới.

Là một ngân hàng gia quốc tế, tôi được Bank of Montreal chuyển đi làm việc tại nhiều nơi trước khi đến Singapore năm 1981. Sau khi rời ngân hàng năm 1986, tôi được mời làm Tổng giám đốc của Công ty bất động sản City Developments Limited (CDL), con chim đầu đàn của Hong Leong. Hai năm sau thì tôi được chuyển sang giữ chức vụ Tổng giám đốc Singapore Finance thuộc cánh tài chính của tập đoàn và đồng thời trở thành một thành viên HĐQT của CDL, bắt đầu một chuỗi những chức vụ khác trong các lãnh vực kỹ nghệ, thương mại, đầu tư, khách sạn của Hong Leong suốt 25 năm.

Làm việc với cụ Kwek trong 8 năm trước khi người cha đẻ của Hong Leong qua đời, tôi luôn muốn biết xem làm sao mà một người không hề được đào tạo từ một trường lớp kinh doanh nào và cũng chưa xong trung học, lại có thể xây dựng được một sự nghiệp khổng lồ như thế? Ngày rời đại học với hai mảnh bằng về quản lý, có lẽ cũng như bao nhiêu bạn trẻ ngày nay, tôi đã có cái ảo tưởng là với khả năng “chẻ sợi tóc ra làm tám”, tất cả mọi bài toán kinh doanh cũng như bao chuyện khác đều có thể phân tích và giải quyết được.

Dưới chân Thầy, tôi mới thấy rằng, quản lý không phải chỉ là một khoa học và còn là một nghệ thuật. Cách quản lý của cụ Kwek, hay nói chung là của phương Đông, đôi lúc thấy thật đơn giản chứ không phức tạp như phương Tây, nhưng đã mang lại những kết quả to lớn không ngờ. Những cách quản lý ấy có còn áp dụng được trong thời buổi này hay không, tôi mong sẽ có dịp mang ra bàn bạc trong những bài viết sắp tới. Tuy nhiên, có một điều nổi bật nhất là cách dùng người. Cụ Kwek chỉ quan tâm đến những người làm được việc và có đáng tin cậy hay không, chứ tuyệt nhiên không hề chú trọng đến bằng cấp. Dưới trướng của cụ không hề thấy bóng một vị tiến sĩ nào cả vì cụ cho rằng phần đông họ là những lý thuyết gia.

Giữa thập niên 1980, khi Singapore đang trải qua một cơn bão kinh tế khốc liệt thì thị trường tràn ngập các bất động sản được tung ra bán để trả nợ ngân hàng. Trong số những dự án mà tôi đã duyệt qua thì có khách sạn Orchard với 350 phòng, tọa lạc tại một vị trí rất tốt ở trung tâm thành phố. Mặc dầu giá chào bán rất rẻ nhưng trước viễn cảnh kinh tế u tối thì tôi đề nghị không nên đầu tư. Thế nhưng mặc những lời can ngăn từ mọi phía, cụ Kwek Hong Png quyết định đổ tiền ra mua lại khách sạn này và không những thế lại chi thêm 12 triệu đô để mua 3 biệt thự ở bên cạnh. Mọi cơn bão rồi cũng đi qua, khi tình hình kinh tế đã ổn định vài năm sau đó thì cụ bèn cho phá ba ngôi biệt thự cũ ấy để xây thêm 350 phòng, biến Orchard Hotel thành một khách sạn 700 phòng. Ngày nay khách sạn này là ngôi sao sáng chói nhất trong toàn bộ 110 khách sạn thuộc nhánh Millenium & Copthorne Hotels của CDL.

Một kỷ niệm nữa với cụ Kwek là lúc CDL xây tòa nhà Republic Plaza. Tôi còn nhớ ngày bước vào văn phòng cụ Kwek, cầm trên tay bản phân tích dự án xây dựng tòa nhà 64 tầng cao nhất Singapore này, tôi cất lời: “Thưa cụ, tôi đã phân tích kỹ phương cách tài trợ và bây giờ chỉ còn khoảng… 20 câu hỏi muốn xin ý kiến cụ để triển khai dự án này”. Cụ Kwek liếc mắt nhìn bảng in điện toán dầy đặc các con số rồi lẳng lặng đưa ba ngón tay ra trước mặt tôi và chậm rãi nói - bằng một giọng tiếng Anh đặc sệt Phúc Kiến: “Mr. Hân à! Tôi muốn anh nhớ cho tôi 3 điều: Thứ nhất là phải giữ giá xây dựng không được quá xxx đô mỗi thước vuông. Thứ hai là anh không trả quá 20 triệu đô để nới rộng mảnh đất ra con đường bên cạnh, và thứ ba…”.

Thế rồi ông xua tay ra hiệu cuộc họp đã chấm dứt!

Chỉ trừ khi có người phụ tá bên cạnh để thông dịch, các cuộc họp với cụ thường không kéo dài vì tôi không nói được tiếng Hoa còn cụ thì nói tiếng Anh không sõi lắm. Bước ra khỏi phòng họp, tôi cảm thấy bực mình. Nhớ lại ngày còn là chuyên viên cao cấp phân tích những dự án tài chính quốc tế khổng lồ của Bank of Montreal ở Toronto như xây đường ống dẫn dầu xuyên Canada, khoan mỏ dầu khí dưới vùng biển Kavalas, xây nhà máy hạt nhân, mua nhà máy lọc dầu… tôi phải viết những bài phân tích dầy cộm, bàn bạc kỹ lưỡng và tranh cãi dai dẳng, thế nhưng bây giờ với dự án mấy trăm triệu đô này mà tất cả chỉ cần… 3 ngón tay thôi sao?

Mãi sau này khi đã “dầy dặn chiến trường” ở châu Á hơn thì tôi mới thấu hiểu được cách suy nghĩ của cụ. Được đào tạo từ những trường lớp quản lý kinh doanh và làm việc ở phương Tây, tôi chỉ biết nhìn các vấn đề một cách rất máy móc. Các chương trình điện toán siêu nhanh ngày nay lại rất dễ khiến con người cảm thấy “tự tin” hơn để đi đến… những quyết định nông cạn! Chỉ là một người chưa học xong trung học nhưng mấy chục năm “xông pha thương trường” dày dặn kinh nghiệm đã giúp cụ Kwek có một cái nhìn sâu rộng và một trực giác kinh doanh vô cùng bén nhạy.

Cụ không hề bận tâm đến những điểm không quan trọng mà nhìn thấy cái “lý” của sự việc, không khác gì một cao thủ võ lâm biết nhắm vào các yếu huyệt của đối phương để tấn công. Không những chỉ cần chú tâm đến ba “yếu huyệt” của một dự án, cụ Kwek còn nhìn rất xa và biết lúc nào cần “ra tay” như trong dự án khách sạn Orchard.

Cửa sổ cơ hội thường chỉ hé mở trong một khoảnh khắc rất ngắn mà nếu không biết nắm bắt thì cơ hội sẽ vụt bay không bao giờ trở lại! Thế nào cũng sẽ có lắm người phê bình rằng hai điều trên đây thì chẳng có gì mới lạ, vì vấn đề muôn thuở vẫn là tiền lấy từ đâu để đầu tư? Thôi thì chúng ta sẽ bàn đến chuyện này trong một dịp khác vậy.

Ngày cụ mất, báo chí Singapore tràn ngập các mẫu cáo phó. Đám tang cụ Kwek lớn như một quốc táng nhưng nơi an nghỉ cuối cùng của cụ chỉ là một nghĩa trang rất khiêm nhường. Ngôi mộ không lăng tẩm cầu kỳ mà chỉ bình thường như mộ của mọi người dân Sing khác.

Đúng hai mươi năm đã trôi qua, hôm nay tôi xin thắp một nén hương để tưởng nhớ đến một Người Thầy.


Võ Tá Hân

Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam

Trở về trang chính

Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống Thơ cho con

Sunday, March 2, 2014

Sức mạnh mềm và Ngoại giao văn hóa





ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM. Giáo sư Song Thành vừa có bài viết "Ngoại giao văn hóa" với vấn đề gia tăng sức mạnh mềm" của Việt Nam trong hội nhập và phát triển đăng trên trang Viet-studies.
"Việt Nam sẽ triển khai sức mạnh “ngoại giao văn hóa” của mình như thế nào? Ở thế kỷ trước, chúng ta đã một thời là trung tâm thu hút được sự yêu mến và kính trọng của loài người tiến bộ vì đã đi tiên phong và giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh cho độc lập tự do và phẩm giá con người - một chàng David bé nhỏ đã quật ngã được gã khổng lồ Goliath - làm cho chính đối thủ cũng phải nể phục. Tiếc thay, sức mạnh mềm ấy nay đã là chuyện của quá khứ, ta không thể cứ mãi “ăn mày dĩ vãng”. Để tạo ra sức mạnh mềm mới, có lẽ ta cần tỉnh táo, sáng suốt định vị lại mình là ai, đang ở vị thế nào trong thế giới hiện đại, cần phải thay đổi những gì để có thể tái thu hút được sự yêu mến và cảm phục của nhân loại như một thời ta đã có ? Những câu hỏi ấy thật không dễ trả lời." Trước đèn (ảnh) đọc lại và suy ngẫm  "Sức mạnh mếm" và "Ngoại giao văn hóa". Cám ơn tác giả và xin phép được chép lại bài viết hay.

 

“Ngoại giao văn hóa” với vấn đề gia tăng “sức mạnh mềm” của Việt Nam trong hội nhập và phát triển
 
GS Song Thành
 
Sự ra đời của thuyết “sức mạnh mềm”
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới đã có những thay đột biến. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới từ đối đầu chuyển sang đối thoại hòa bình, hợp tác, cùng phát triển trong một thế giới toàn cầu hóa,…do đó mọi ứng xử quốc tế cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp.
Tiếp theo là cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ châu Á 1997-98 làm cho kinh tế thế giới bước vào thời kỳ trì trệ kéo dài, kéo theo sự suy sụp của các nền kinh tế “bong bóng” ở một số nước, như Nhật Bản, Hàn Quốc,…buộc những nước này cũng phải đi tìm con đường mới để phát triển.
 Đây cũng là thời kỳ mà công nghệ thông tinvăn hóa đại chúng phát triển mạnh, mở ra một thị trường sản xuất và tiêu thụ văn hóa rộng lớn trên phạm vi toàn thế giới (ca nhạc, điện ảnh, truyền thông,…).
 Trong thời đại đối thoại thay cho đối đầu, vai trò của sức mạnh quân sự cũng đang thay đổi. Vũ khí hạt nhân với sức mạnh hủy diệt vô cùng tàn bạo, có vai trò răn đe không thể chối cãi, nhưng không phải lúc nào cũng có thể đem nó ra sử dụng khi có chiến tranh, bởi người ta buộc phải tính đến cái giá khủng khiếp mà nhân loại sẽ phải trả một khi chúng được cả hai bên đem ra sử dụng.
Mỹ là một cường quốc hạt nhân nhưng đã cam chịu thất bại trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Arhentina không ngần ngại tấn công quần đảo Malvinas do Anh chiếm đóng, mặc dù Anh có trong tay vũ khí hạt nhân.
Thất bại của chính quyền Bush trong việc đem quân vào Afganistan, vào Irak hay trong cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố hiện nay,…cũng chứng tỏ điều này. Vấn đề của các nước Hồi giáo Trung Đông là vấn đề tôn giáo, không thể giải quyết bằng quân sự mà phải bằng kinh tế và văn hóa, nhất là khi chủ nghĩa khủng bố đã trở thành một lực lượng xuyên quốc gia, đang bị chi phối bởi một giáo lý cực đoan có hàng tỷ người tin theo.
Hơn nữa, việc sử dụng sức mạnh quân sự ngày càng trở nên tốn kém hơn, vì vậy những nước tư bản công nghiệp phát triển nay thường tập trung vào tăng cường cho sự phồn vinh của đất nước, không còn ham muốn chinh phục nữa, không muốn phải chịu nhiều thương vong. Trừ phi sự tồn vong của chính quốc gia họ bị đe dọa, còn ở các nước dân chủ, việc huy động chiến binh vào cuộc chiến phải được biện minh về tính chính nghĩa-đạo đức của nó thì mới được dân chúng đồng tình, ủng hộ. Các quốc gia ở lục địa châu Âu vốn đã bị tàn phá bởi ba cuộc chiến tranh Pháp-Đức trong vòng một thế kỷ nên họ có khuynh hướng đi tìm các giải pháp hòa bình để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột.
 Hoa Kỳ là một cường quốc quân sự nhưng nay cũng phải cân nhắc khi sử dụng vũ lực, vì nó có thể gây nguy hại cho những mục tiêu kinh tế. Sự tồn tại của các “ốc đảo hòa bình” (như các nước Bắc Âu, Thụy sĩ,…) cho thấy tầm quan trọng ngày càng lớn của sức mạnh mềm.
Ở thời đại hiện nay, các lợi thế hợp tác ngày càng trở nên quan trọng, ai cải thiện được khả năng hợp tác với bạn bè và đồng minh, người đó sẽ đạt được ưu thế cạnh tranh so với các đối thủ của mình.
 Vì vậy, trước bối cảnh mới, các nước đều đang có sự tìm tòi những phương thức ứng xử quốc tế mới, không phải đối đầu mà là đối thọai, không phải sử dụng quyền lực cứng (quân sự, kinh tế đơn thuần) mà phải tìm cách phát huy quyền lực mềm, tức là phát huy sức mạnh của hệ giá trị quốc gia: bao gồm các giá trị về văn hóa, về thể chế xã hội, về chính sách quốc gia (đối nội và đối ngoại),… để cạnh tranh với thế giới.
Đảng CS Việt Nam, trong các văn kiện chính thức từ sau Đại hội XI tuy chưa thấy đề cập đến khái niệm “sức mạnh mềm” nhưng đã nhấn mạnh nhiều đến vai trò của “ngoại giao văn hóa” như là một biện pháp quan trọng để phát huy sức mạnh mềm của quốc gia.
Vậy “sức mạnh mềm” (hay quyền lực mềm) là gì?
Quyền lực, hiểu một cách đơn giản, là quyền năng chỉ huy, sai khiến,  gây ảnh hưởng lên người khác để đạt được hiệu quả mình mong muốn. Có nhiều cách để tác động lên hành vi của người khác: như đe dọa, cưỡng ép  hay dụ dỗ, mua chuộc, hoặc là kết hợp cả hai.
 Theo GS Joseph Nye - giáo sư Đại học Harvard của Hoa kỳ-người được coi là cha đẻ của thuyết “sức mạnh mềm”, thì sức mạnh tổng hợp của một quốc gia gồm có “sức mạnh cứng” (hard power, gồm sức mạnh quân sự, kinh tế, khoa học- công nghệ,…) và “sức mạnh mềm” (soft power, gồm sức mạnh của văn hóa, thể chế xã hội và các chính sách  đối nội, đối ngoại của quốc gia đó).
Sức mạnh cứng chi phối, tác động, chinh phục các quốc gia khác bằng cây gậy hay củ cà rốt. Sức mạnh mềm là khả năng lôi cuốn, thu phục, cảm hóa người khác bằng sức hấp dẫn của các giá trị về văn hóa, về thể chế , chính sách được thực thi hiệu quả ở nước mình, thông qua đó mà nhận được cảm tình, sự nể phục và hợp tác bền vững của các nước khác.
Ngoài ba yếu tố cơ bản nói trên (các giá trị văn hóa quốc gia, thể chế quốc gia và chính sách quốc gia), sức mạnh mềm còn có thể được tạo lập bởi một vài yếu tố khác nữa, ví như sự thành công kỳ diệu về kinh tế của Trung Quốc; như hải quân Mỹ tham gia cứu trợ nạn nhân sóng thần ở Ấn Độ Dương và động đất ở Nam Á; hoặc danh vọng, ảnh hưởng của những danh nhân quốc gia có tài năng, uy tín lớn…với nhân loại,… cũng có thể đem lại sức hấp dẫn cho đất nước ấy.
Ở thời đại hiện nay, sức mạnh mềm đang là nhân tố cơ bản để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia cũng như để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của một nước trong khu vực và trên thế giới; nếu chỉ dựa vào sức mạnh cứng về quân sự để thực hiện đường lối đối ngoại, theo “chủ nghĩa đơn phương”, theo chính sách “ngoại giao pháo hạm” như trước đây thì dù sức mạnh cứng có ưu việt đến đâu, cũng sẽ không thể giải quyết được vấn đề mà có khi còn để lại những hậu quả phức tạp, khó lường. Vì vậy, để đạt thắng lợi trên bàn cờ liên quốc gia hiện nay, đòi hỏi các nước phải biết phát huy sức mạnh mềm của mình.
 Mối quan hệ giữa sức mạnh cứng và sức mạnh mềm là mối quan hệ giữa cái hữu hình và cái vô hình. Sức mạnh mềm là thể hiện sự nối dài và mở rộng của sức mạnh cứng. Một quốc gia đã yếu kém về kinh tế và quốc phòng sẽ khó có thể có sức mạnh mềm đáng kể; ngược lại, sức mạnh mềm sẽ làm tăng sức mạnh cứng, ví như tính thống nhất dân tộc, sự đồng thuận quốc gia, sự ổn định chính trị của đất nước, sức hấp dẫn về văn hóa và thể chế xã hội,…là những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh mềm, nó sẽ góp phần làm tăng sức mạnh cứng, nhờ đó mà “bất chiến tự nhiên thành”.
Ngược lại, nếu sức mạnh cứng khỏe, nhưng sức mạnh mềm yếu kém, không có sức hấp dẫn về thể chế, chính sách và văn hóa,…thì cũng không gây được cảm tình, không cạnh tranh được với ai. Nói cách khác, sức mạnh cứngsức mạnh mềm phải dựa vào nhau, thúc đẩy lẫn nhau để tạo ra sức mạnh tổng hợp quốc gia, nên cần phải tăng cường cả hai. Hiện nay, các nước lớn trong khi tăng cường sức mạnh cứng vẫn đang rất chú trọng phát huy sức mạnh mềm của mình, nhất là về văn hóa.
Singapore là một nước nhỏ, dân ít, lại là quốc gia đa dân tộc, đa văn hóa (Hoa, Ấn, Mã Lai và phương Tây), tài nguyên không có gì, đến nước ngọt cũng phải nhập khẩu,…nghĩa là không có sức mạnh cứng gì đáng kể mà biết vươn lên từ sức mạnh mềm để trở thành một quốc gia có vị trí nổi bật ở châu Á và thế giới.
Người ta thường nói đến 7 trụ cột mềm của Singapore: có một đội ngũ lãnh đạo xuất chúng (như Lý Quang Diệu, Ngô Khánh Thụy,…); có một nền quản lý nhà nước ưu việt với các yếu tố: trọng đãi nhân tài, tính thực dụng, lòng chân thành, tính tối thượng của pháp luật,…; tính đa văn hóa: Singapore là sự kết hợp 4 nền văn hóa lớn của thế giới; người Singapore nói tiếng Anh tốt nhất châu Á, tạo ra lợi thế cạnh tranh với các nước châu Á khác; có văn hóa ẩm thực đa dạng; có môi trường xanh, sạch, đẹp, v.v..
Nhật Bản cũng đất hẹp người đông, tài nguyên không có, thiên nhiên khắc nghiệt (động đất, sóng thần), lại không nằm trên trục giao thông đường biển như nước ta,…thế mà đã từng là một cường quốc quân sự, hiện đang là cường quốc kinh tế, vươn lên từ sức mạnh mềm: tinh thần võ sĩ đạo, ý chí mãnh liệt, tinh thần kỷ luật, tính cộng đồng cao, lòng trung thành, ý thức tôn trọng truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc (là một quốc gia hiện đại kiểu phương Tây mà có  bản sắc dân tộc đậm nét phương Đông: từ nhà ở, y phục đến ẩm thực, trà đạo,…)
Để quảng bá sức mạnh mềm của mình, Nhật Bản đã có rất nhiều nỗ lực:
-Viện trợ kinh tế ODA cho các nước đang phát triển, như cho Việt Nam ta, mỗi lần hàng trăm tỷ Yên; viện trợ cho Quỹ tiền tệ IMF để giúp các nước đang gặp khó khăn.
- Nhật Bản tham gia tích cực vào các hoạt động giữ gìn hòa bình của LHQ, như ở Afganistan, ở Irak; vào các chương trình phát triển của LHQ, như đầu tư giúp các nước châu Phi về thay đổi khí hậu, đem tàu tuần dương hộ tống tàu buôn các nước chống lại bọn hải tặc Somalie,…
-Thực hiện chiến lược ngoại giao công chúng thông qua các hoạt động truyền thông, văn hóa đại chúng, qua các sản phẩm công nghệ văn hóa mang nhãn hiệu Japanese.
-Phát huy quyền lực mềm văn hóa: họ mở hàng trăm trung tâm dạy tiếng Nhật cho người nước ngoài, tài trợ cho sinh viên các nước sang du học tại Nhật Bản, tăng số sinh viên Nhật ra nước ngoài học, đưa sản phẩm văn hóa Nhật sang phương Tây: như truyện tranh Đôremôn, búp bê Hello Kitty,..
-Thực hiện đường lối ngoại giao đa cực, v.v..
Kết quả là Nhật Bản đã lột xác từ một tên quân phiệt trong thế chiến 2 trở thành nhà từ thiện, nhà buôn, nhà ngoại giao với hình ảnh đẹp đẽ, hấp dẫn, in dấu ấn sâu đậm trong tâm trí người nước ngoài.
Hàn Quốc vào những thập niên 50, 60 thế kỷ trước cũng là một nước nghèo như ta, nay đã vươn lên như một cường quốc châu Á, thông qua xuất khẩu văn hóa và các sản phẩm công nghiệp văn hóa, như:
-Điện ảnh Hollywood: họ tiếp thu tinh hoa điện ảnh thế giới để sáng tạo ra một phong cách làm phim riêng. Do nắm bắt được tâm lý giới trẻ trong nước đã chán ngán dòng phim xã hội đen, phim chính luận khô khan,…Hàn Quốc tung ra những bộ phim có nội dung nhẹ nhàng, lấy bối cảnh chính từ xã hội hiện đại, giải quyết những mâu thuẫn gần gũi với cuộc sống đời thường, xoay quanh chữ hiếu, tình yêu chung thủy và các giá trị gia đình châu Á, song họ lại rất chú trọng đến ngoại hình của diễn viên, cảnh quay đẹp, nhạc phim hay, có sức cạnh tranh với phim nước ngoài, đã biến Liên hoan phim Pusan trở thành một dạng Liên hoan phim Cannes của châu Á.
-Truyền thông: được coi là một phương tiện quảng bá hình ảnh Hàn Quốc ra toàn cầu, trở thành một ngành kinh tế truyền thông mũi nhọn. Hàn Quốc có rất nhiều hãng truyền hình tư nhân, cạnh tranh quyết liệt với Đài truyền hình TƯ KBS của Chính phủ. Các thông tin truyền tải trên các hãng này không bao giờ lấy lại của nhau, nhưng nội dung đều nhằm mục tiêu quảng bá ra thế giới hình ảnh văn hóa, đất nước và con người Hàn Quốc - vừa truyền thống, vừa hiện đại .
-Ngành công nghiệp giải trí rất phát triển, như âm nhạc, gam-show, talk-show,…với hình ảnh các ca sĩ, diễn viên đẹp - nhờ công nghệ lăng xê - tạo ra các thần tượng, góp phần Hàn hóa thanh thiếu niên nhiều nước, trong đó có cả Trung Quốc và Việt Nam.
-Thời trang và mỹ phẩm của Hàn Quốc đều có sức cạnh tranh mạnh mẽ, bỏ xa nhiều đối thủ, như Nhật Bản, mang lại lợi nhuận lớn với các thương hiệu như De Bon, E 100, Double Rich,…
-Du lịch: do ảnh hưởng của phim ảnh Hàn Quốc, du khách đổ sang Hàn Quốc ngày càng nhiều, để được thăm các cảnh đẹp trong phim, thăm các trường quay, các danh thắng,…Trong năm 2011, họ thu hút được 8,8 triệu du khách nước ngoài, nhất là từ Trung Quốc .
Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của văn hóa trong chiến lược “ngoại giao sức mạnh mềm” trên thế giới hiện nay.

“Ngoại giao văn hóa”- một lợi thế của sức mạnh mềm Việt Nam, cần được đẩy mạnh và phát huy.
Cần nói ngay: sức mạnh mềm không phải là giải pháp cho tất cả mọi vấn đề. Nó cũng có những hạn chế nhất định. Là khả năng đạt được điều mình mong muốn thông qua sức hấp dẫn của các giá trị, chứ không phải bằng mua chuộc hay ép buộc, nên nó phải trải qua một quá trình, phải có thời gian. Hai nữa, chiến lược sức mạnh mềm chỉ được triển khai hiệu quả khi bản thân quốc gia đó tạo ra được những giá trị đích thực, nhất là về văn hóa, được nhiều người thừa nhận, mến mộ và chia sẻ.
          Việt Nam ta hiện nay, sức mạnh cứng chưa đủ mạnh, mà sức mạnh mềm cũng đang yếu, khả năng tác động quốc tế chưa nhiều, sức hấp dẫn về văn hóa cũng chưa đáng kể.
           Tuy nhiên, cạnh tranh “sức mạnh mềm” không phải là sân chơi dành riêng cho các “đại gia”. Các nước nhỏ hoàn toàn có thể tạo ra nguồn lực mềm của mình để xác lập vị thế quốc tế (như Na-uy, Singapore,…đang có). Văn hóa là một lợi thế của Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể tăng cường và phát huy sức mạnh mềm của mình, bắt đầu từ văn hóa.
          Cứng tạo ra lực, mềm tạo ra thế. Nếu khéo làm, ta có thể chuyển thế thành lực. Lực ta hiện còn yếu (cả về kinh tế, quân sự, KH-CN), ta không thể dùng lực để đạt mục tiêu, nên phải sớm tạo ra thế bằng sức mạnh mềm của văn hóa.
          Dưới đây xin thử nêu lên một vài kiến giải sơ bộ.
1. Tiềm năng sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam dồi dào, nhưng hiện vẫn chưa được kế thừa và phát huy tốt.
Việt Nam ta có một nền văn hóa lâu đời, được thừa hưởng của cha ông những giá trị văn hóa tinh thần vô giá, có khả năng tạo ra sức mạnh mềm không thua kém quốc gia nào. Ví như, khi Tổ quốc lâm nguy, vua quan nhà Trần đã biết cùng các bô lão mở Hội nghị Diên Hồng, thống nhất ý chí “cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”, nêu cao tư tưởng “lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm nền”, “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, “dĩ đoản binh chế trường trận”. “mưu phạt, tâm công, bất chiến tự khuất”,…Khi kẻ thù đã vẫy đuôi xin hàng, ta sẵn lòng mở đường hiếu sinh, cấp cho họ năm trăm chiến thuyền, vài nghìn cỗ ngựa để họ về nước, bởi ta chỉ cốt “dập tắt muôn đời chiến tranh, mở nền thái bình muôn thuở”.
Trong thời bình thì lo “an dân, trị quốc”, vì thế đã kiên quyết “trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”, để sao cho khắp “thôn cùng, xóm vắng không còn tiếng hờn giận, oán sầu” như Nguyễn Trãi đã nói. Ở thời đại Hồ Chí Minh, đó là các tư tưởng “dân là chủ”,“phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc”, “có dân là có tất cả”, cho nên “việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm; việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”, vì dân bất tín thì vô lập… Đó là những tinh hoa muôn thưở của sức mạnh mềm, không thể để bị mai một, muốn thu phục lòng dân hay bạn bè, chúng ta phải tìm mọi cách kế thừa và phát huy nó lên, tạo ra sức mạnh mềm để bảo vệ Tổ quốc và hội nhập, phát triển thành công.
- Trở lại thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trong thế kỷ vừa qua, nhân dân ta đã nêu một tấm gương sáng chói về tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần dũng cảm, trí tuệ sáng tạo,…trong chiến tranh, nhờ đó chúng ta đã thu phục được lòng yêu mến và cảm phục của nhân loại tiến bộ yêu hòa bình, công lý, dân chủ và nhân đạo trên toàn thế giới.
Ở thời điểm đó, chúng ta được coi là biểu tượng của lương tâm, vinh dự của thời đại, một dân tộc nhỏ dám kiên cường đương đầu, chống lại những đế quốc lớn, vì các mục tiêu cao cả: độc lập dân tộc, dân chủ, nhân quyền - mà cao nhất là quyền được sống trong độc lập, tự do, theo con đường lựa chọn của mình. Chính điều đó là sức mạnh mềm tạo nên lực hấp dẫn của Việt Nam, vì thế mới có người mơ ước sau một đêm ngủ dậy thành người Việt Nam; mới có những cuộc biểu tình rầm rộ trên thế giới phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ; mới có phong trào hiến máu cho Việt Nam , phong trào tình nguyện sang Việt Nam chiến đấu,… Sự ủng hộ vật chất và tinh thần to lớn đó đã góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của Việt Nam mùa xuân năm 1975.
Tiếc rằng ta đã không tranh thủ nắm lấy cơ hội ấy để phát triển lên thành một quốc gia độc lập, thống nhất, giàu mạnh, có vị thế quốc tế trong khu vực và thế giới. Trái lại, ngay sau đó chúng ta đã mắc phải một số sai lầm trong chính sách đối nội và đối ngoại, làm cho hình ảnh Việt Nam  đang huy hoàng, rực rỡ bỗng trở nên méo mó trong con mắt của loài người, đất nước lâm vào thế bị bao vây, cô lập, suy thoái, tụt hậu hàng mấy chục năm so với các nước xung quanh.
Lòng yêu nước, tinh thần xả thân vì nước là một giá trị vô cùng quý báu, nhưng “không phải để cất giấu trong rương, trong hòm” mà phải có cơ chế, chính sách, biện pháp biến nó thành động lực, khiến cho người dân sẵn sàng đem tài năng, sức lực, tiền của ra sản xuất, kinh doanh, góp phần vào xây dựng và phát triển đất nước. Muốn thế, Nhà nước phải là nhà nước của dân, phải tạo được niềm tin trong dân, khi đó dân sẽ sẵn sàng sẻ nhà, sẻ cửa để góp phần với nhà nước, như nhân dân ta đã từng đóng góp vào Tuần lễ VàngQuỹ đảm phụ quốc phòng sinh thời Hồ Chí Minh năm 1946.
- Sức mạnh mềm của Việt Nam còn được thể hiện ở tinh thần khoan dung  văn hóa. Con người Việt Nam không hề hẹp hòi, kỳ thị mà sẵn sàng thâu hóa những giá trị khác nhau của nhân loại, làm phong phú thêm cho văn hoá của mình (văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, Chămpa,…cũng như văn hóa phương Tây sau này).
 Ví như, về chữ viết, chúng ta chưa có, hoặc có nhưng sớm bị mai một, chúng ta đã học chữ Hán, rồi dựa vào nó mà chế tạo ra chữ Nôm; hay sau này sẵn sàng tiếp thu chữ cái latinh. Về văn hóa tâm linh, ta đã có đạo thờ cúng tổ tiên, nhưng vẫn tiếp thu Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành,...cũng như sau này tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm cách mạng của các nước anh em,…Đó là sức mạnh mềm của Việt Nam : khả năng dung hóa, thâu hóa cái hay, cái tốt, cái đúng, cái đẹp của văn hóa nhân loại, để nâng cao và làm giàu cho văn hóa của mình.
Người Mỹ rất khâm phục và ca ngợi tinh thần bao dung, nhân ái của người Việt Nam. Trong chiến tranh, họ đã gây ra cho đất nước và nhân dân ta bao tội ác trầm trọng (sự tàn phá, chết chóc, thương tật, trẻ mồ côi, di hại của chất độc da cam,…). Nhưng chỉ vài năm sau khi chiến tranh kết thúc, nhiều cựu binh Mỹ đã sang thăm Việt Nam , lúc đầu họ cũng sợ bị nhân dân ta lên án, xua đuổi, nhưng ngược lại, họ đã được đón tiếp tử tế. Chính các Tổng thống Mỹ Bill Clinton, G. W. Bush sang thăm Việt Nam cũng ngạc nhiên trước lòng khoan dung, hiếu khách của người Việt chúng ta, họ có được cảm giác thật sự an toàn, thoải mái khi đi dạo trên đường phố Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh , thăm Văn Miếu, vào lễ Nhà thờ Cửa Bắc, chơi Chợ Bến Thành, thưởng thức món phở nổi tiếng của Việt Nam ngay trong chợ, không chút e ngại. Đó là một hiện tượng khó diễn ra ở một quốc gia cựu thù nào khác của nước Mỹ.
- Sức mạnh mềm của Việt Nam còn thể hiện ở truyền thống đoàn kết, cộng đồng, sẵn sàng gạt bỏ mọi dị biệt và lợi ích riêng tư để tập trung cứu nước và dựng nước; là truyền thống lá lành đùm lá rách, cưu mang lẫn nhau trong hoạn nạn (thủy, hỏa, đạo, tặc). Lịch sử đã ghi lại không ít những trang viết cảm động, sâu sắc về truyền thống cao đẹp này. Ai cũng biết: sự thống nhất dân tộc, sự đồng thuận xã hội là nhân tố cơ bản tạo nên sự ổn định chính trị của quốc gia, tạo nên sức mạnh mềm, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Tiếc thay, chúng ta rộng rãi với người ngoài, nhanh chóng xóa bỏ quá khứ, nhìn về tương lai, nhưng nhiều khi lại hẹp hòi giữa những người cùng chung dòng máu Hồng Lạc. Một dân tộc hơi nặng cảm tính. Chiến tranh kết thúc, giang sơn quy về một mối đã 40 năm mà thiên kiến “bên này, bên kia” vẫn còn đó. So với nước Đức cùng cảnh ngộ bị chia cắt thì giữa người Việt chúng ta cho đến nay vẫn chưa thể nói đã có hòa hợp dân tộc thực sự ! Điều này đang làm suy yếu sức mạnh mềm của đất nước - một cản trở lớn cho hội nhập và phát triển.
- Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, với hơn 3.200 km bờ biển, lại nằm ở ngã tư đường giao thông hàng hải từ bắc xuống nam, từ đông sang tây; tài nguyên thiên nhiên không đến nỗi nghèo nàn; nhân dân ta vốn có truyền thống lao động cần cù và sức mạnh vượt khó đáng ngạc nhiên. Với dân số 90 triệu, phần đông là lao động trẻ, năng động, có chí tiến thủ - một nguồn lao động đầy tiềm năng,…nhưng sao đất nước vẫn không vượt lên được để trở thành một quốc gia phát triển, trái lại, sau một số năm đổi mới thành công, nay lại đang rơi vào  trì trệ, suy thoái ?
Người Trung Quốc, hơn ba chục năm trước đây từng nêu ra câu hỏi: vì sao 20 triệu người Hoa ở khắp thế giới lại tạo ra được số của cải nhiều lần hơn 1 tỷ người Hoa ở lục địa? Lời giải đã được làm sáng tỏ bằng cuộc cải cách, chuyển đổi sang kinh tế thị trường mang đặc sắc Trung Quốc, theo tư duy thực dụng: “Mèo trắng, mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”. Kết quả là sau vài chục năm phát triển ngoạn mục, Trung Quốc đã nổi lên như là một thị trường, một công xưởng lớn nhất thế giới, có sức mạnh kinh tế vượt xa Nhật Bản, chỉ còn thua nước Mỹ !
Vậy nguyên nhân giầu nghèo là ở đâu? - do tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, văn hóa, thể chế kinh tế-xã hội hay con người ? Nếu nghiên cứu kỹ hiện tượng thần kỳ của Nhật Bản vào thập niên 60-70 thế kỷ trước hay sự vươn lên của các con rồng châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore, ta có thể tự tìm được câu trả lời.
 Năm 2014 này, nhân dân ta đón xuân với thông điệp đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - một thông điệp chứa đựng nhiều quan điểm có tính đột phá - trong đó nhấn mạnh đến vấn đề cải cách thể chế: “tập trung nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa  và tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới”. Thông điệp đã đề cập đến một khái niệm mới: chức năng kiến tạo phát triển của nhà nước. Nhà nước không làm thay dân mà phải tập trung xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để mọi người  phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình… Thông điệp đã phản ánh đúng nguyện vọng bấy lâu của người dân, nên được đa số nhân dân vui mừng đón nhận.
- Người Việt Nam vốn được tiếng là thông minh và hiếu học. Chỉ số IQ và EQ cùng những giải thưởng giành được trong các kỳ thi quốc tế đã chứng minh điều này. Đó là một lợi thế của chúng ta. Ngày nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu lớn lao về khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông tin. Nhiều quốc gia lân bang vào nửa cuối thế kỷ trước vốn có trình độ phát triển không mấy hơn ta, thậm chí có mặt còn thua ta, nhưng do biết tận dụng cơ hội thời đại mang đến, họ đã bứt lên trong cuộc cạnh tranh, đem lại phồn vinh và hạnh phúc cho dân tộc mình.
Lịch sử mỗi nước tùy thuộc rất nhiều vào sự lựa chọn định hướng của các nhà lãnh đạo nước đó. Ông Lý Quang Diệu trong cuốn “Bí quyết hóa rồng” đã cắt nghĩa rõ bài học thành công của Singapore. Từ khá sớm ông Lý từng phát biểu với các nhà lãnh đạo Việt Nam: “Thắng cuộc đua trong giáo dục thì mới thắng cuộc đua trong kinh tế”. Đến nay, chúng ta mới thật thấm thía bài học này. Kinh tế của chúng ta trì trệ, kém phát triển vì giáo dục của chúng ta quá lạc hậu, cũ kỹ cả về nội dung lẫn phương pháp, không nâng cao được chất lượng đào tạo con người, mà con người mới là nhân tố quyết định của phát triển.
Giáo dục Việt Nam xưa vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của giáo dục Nho giáo: hiếu cổ (sùng bái cái cũ, “xưa bày, nay làm”), chủ trương chỉ “thuật nhi bất tác, vô vi vô cải”, chuộng từ chương, háo danh hiệu, bằng cấp,  coi nhẹ thực nghiệp, khoa-kỹ,…cho nên các nhà nho xưa hầu như không có vai trò, tác dụng gì đối với sản xuất.
Khi đi vào xây dựng nền giáo dục mới, chúng ta đã phê phán những tàn dư này, đề cao vai trò của thực tiễn, xem thực tiễn là tiêu chuẩn cao nhất của chân lý. Tuy nhiên trong thực tế nghiên cứu-giảng dạy, chúng ta vẫn chưa thoát khỏi căn bệnh kinh viện, giáo điều, mà chưa xuất phát từ đòi hỏi của đời sống thực tế. Vì vậy, trong nội dung và phương pháp giảng dạy, ta thường chỉ chú trọng truyền thụ, áp đặt một chiều, không khuyến khích tư duy độc lập, không cho phép nêu phản đề, tranh luận, phản biện,…để tìm ra cái mới. Tư duy triết học đã sơ cứng thì không những khoa học xã hội không tiến lên được, mà cả khoa học tự nhiên cũng không thể phát triển.
Bản chất của giáo dục không phải chỉ là lưu giữ, truyền bá tri thức cũ, rồi đóng khung lại, “vô vi vô cải”, mà cái chính là phải nghiên cứu, tìm tòi, thử nghiệm, phát minh,…để sản xuất ra tri thức mới (nhất là giáo dục ở bậc đại học), biến tri thức khoa học thành công nghệ, tạo ra năng suất cao hơn, sản phẩm nhiều hơn, chất lượng tốt hơn, thúc đẩy kinh tế phát triển, tiến tới hình thành nền kinh tế tri thức. Đến lượt nó, sự phát triển của khoa học-công nghệ lại thúc đẩy cuộc đua tranh sản xuất tri thức mới lên một tầm cao hơn.
Khoa học ngày nay vừa kế thừa vừa phủ định lẫn nhau để không ngừng tiến lên, cái hôm nay được coi là đúng, hôm sau có thể không còn đúng nữa. Lý thuyết hố đen của A. Einstein vừa được nhà vật lý thiên tài tật nguyền người Anh Stephen Hawking chứng minh là không tồn tại, nghĩa là không có đường chân trời cho các sự kiện. Mọi tinh tú, vật thể và con người tồn tại, tương tác với nhau trong một vũ trụ bao la, không có giới hạn không gian và thời gian.
 Việt Nam ta hầu như hiện vẫn đang đứng bên ngoài của sự đua tranh quyết liệt về phát triển tri thức khoa học. Vì vậy, để tiến cùng thời đại, chúng ta phải bắt đầu lại từ giáo dục, phải thay đổi triết lý giáo dục, trên nền tảng đó mà xác định lại mục tiêu, cơ cấu lại nội dung, chương trình, sách giáo khoa, đổi mới phương châm, phương pháp dạy và học, có chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với vai trò, vị trí của người thầy giáo,…chỉ có như vậy mới nhanh chóng đưa giáo dục của ta  thoát ra khỏi khủng hoảng, tạo ra động lực mới, sức mạnh mới làm thay đổi vị thế của đất nước.
Nêu ra một số điều như trên để muốn nói rằng sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam tuy dồi dào, nhưng hiện nay chủ yếu vẫn đang tồn tại ở thế tiềm năng, ta phải tìm cách làm cho nó trở thành hiện hữu. Mong rằng các nhà hoạch định chính sách sẽ có những phương án khơi dậy, nâng cao, phát huy những giá trị đó song song với việc ra sức học hỏi, trau giồi những giá trị văn hóa-tinh thần tiên tiến  của thời đại, để Việt Nam có thể sớm cất cánh trong một tương lai gần.
2. “Ngoại giao văn hóa” trước mắt có thể làm gì để góp phần phát huy sức mạnh mềm của đất nước.
          2.1. Đẩy mạnh quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới.
           Sức mạnh mềm của một quốc gia được thể hiện trước hết ở sức thu hút, hấp dẫn, tỏa ra từ các giá trị văn hóa của quốc gia đó, bao gồm các giá trị vật chất (hay giá trị tự nhiên, như phong cảnh, tài nguyên, môi trường…), giá trị tinh thần (hay giá trị nhân văn, như văn hóa, đạo đức, tôn giáo…) và giá trị con người (phẩm chất và năng lực của người dân, đặc biệt là vai trò của các vĩ nhân, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu của đất nước,… ). Những lợi thế này nếu biết phát huy tốt sẽ tạo nên thương hiệu quốc gia, có sức mời gọi đối với thế giới. Ví như, nói đến Ai Cập người ta nhắc tới Kim tự tháp; nói đến nước Pháp người ta nhắc đến tháp Eiffel, bảo tàng Louvre; nói đến nước Anh người ta nhắc đến Tháp chuông đồng hồ Big-beng, Công viên Hoàng gia…; nói đến nước Nga người ta nhắc đến Điện Kremli với những tháp chuông dát vàng, những đêm tháng sáu sáng hồng bên dòng sông Nêva, những cánh rừng bạch dương và thảo nguyên mênh mông của nước Nga; nói đến Úc, người ta nhớ ngay đến nhà hát vỏ sò Xitni, chuột túi kăngguru; nói đến nước Nhật ta nhắc đến núi Phú sĩ, hoa anh đào và trà đạo Nhật Bản; nói đến Trung Quốc là nhắc đến Vạn lý trường thành, Cố cung, Di hòa viên, và những cảnh đẹp đã đi vào văn chương như: sương bến Phong Kiều, trăng sông Xích Bích, tuyết rơi Tây Hồ,…
          Về di sản thiên nhiên:Việt Nam đã có nhiều phong cảnh và danh thắng được Unesco công nhận là di sản thiên nhiên hàng đầu của nhân loại như Vịnh Hạ Long, Động Phong Nha-Kẻ Bàng, bãi đá cổ Sapa; nước ta có nhiều bãi biển đẹp (như Ngũ Hành Sơn, NhaTrang), có du lịch sinh thái sông rạch, miệt vườn Nam bộ độc đáo…
          Về văn hóa, chúng ta được thừa hưởng của cha ông một nền văn hóa đa dân tộc, phong phú về thể loại (cả dân gian lẫn bác học, cả văn chương, hội họa, kiến trúc, lẫn ca múa nhạc) trong đó một số đã được Unesco công nhận là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của nhân loại (như kiến trúc cố đô Huế, Tháp Chàm, di tích thánh địa Mỹ Sơn, nhã nhạc, cồng chiêng, rối nước, quan họ,…). Nhưng được công nhận rồi không phải để cất vào kho, mà cần tiếp tục được nâng cao, phát triển, đem ra quảng bá với thế giới, làm cho bạn bè hiểu biết và tìm đến với nền văn hóa độc đáo của Việt Nam.
          Văn hóa ẩm thực Việt Nam vốn có sức hấp dẫn với du khách do khẩu vị Việt Nam  gắn liền với sản vật nông nghiệp nhiệt đới, giúp cho các món ăn Việt Nam bổ dưỡng mà nhẹ nhàng, thanh lịch, có hương vị và màu sắc riêng, khác với châu Âu mà cũng không giống với Trung Quốc, như món phở, nem rán cua bể, bún thang, bánh cuốn, bánh xèo Huế,…vốn từ lâu đã quen thuộc với du khách nước ngoài. Cây cỏ nhiệt đới Việt Nam tiềm ẩn nhiều vị thuốc quý, như sâm Ngọc Linh, nấm lim xanh và nhiều cây thuốc khác có thể nuôi trồng, tạo ra những vị thuốc riêng mang thương hiệu Việt Nam, để du khách có thể mua về làm quà tặng.
          Sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, chủ yếu được thể hiện ở con người Việt Nam với truyền thống yêu nước, quật cường chống ngoại xâm, ở sự hài hòa cá nhân-gia đình-Tổ quốc, ở sự thân thiện, cởi mở, có tinh thần bao dung hòa hợp, không hẹp hòi, kỳ thị với những cái còn xa lạ đối với mình,…
Những giá trị đó được kết tinh ở những người con ưu tú của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử như Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh , Võ Nguyên Giáp,…cùng bao nhà văn hóa và nhân vật lịch sử lỗi lạc khác. Do cách quảng bá còn có phần thiên lệch của ta, hiện còn nhiều tấm gương của các vĩ nhân khác trong lịch sử Việt Nam vẫn chưa được giới thiệu rộng rãi với thế giới.
 Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành “Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2020”, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể  nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động ngoại giao văn hóa của đơn vị mình. Theo tôi, đây không phải là vấn đề của các bộ, các ngành và địa phương. Cái mà chúng ta đang thiếu hiện nay là một chiến lược tổng thể mang tầm quốc gia về quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, nghĩa là hiện vẫn chưa có một cơ quan, hay tổ chức nào được giao trách nhiệm đứng ra tập hợp những nhà nghiên cứu, nhà hoạt động văn hóa, khoa học, nghệ thuật,…của cả nước để xây dựng nên một chiến lược toàn diện, có tầm ngắn, tầm  dài trong cuộc đua tranh về sức mạnh mềm của văn hóa ở thời kỳ hiện nay.
Ví như về du lịch, hiện nay vẫn do từng địa phương đảm nhiệm, chủ yếu như một ngành kinh tế, một nguồn thu cho ngân sách địa phương, chứ chưa thực sự coi du lịch như một ngành văn hóa, có chức năng hàng đầu là quảng bá những giá trị của đất nước, văn hóa và con người Việt Nam ra thế giới; vì vậy nó vẫn đang diễn ra một cách manh mún, sơ sài, nghèo nàn, thiếu một sự phối hợp, liên thông giữa các ngành với nhau. Du lịch, bản chất nó là văn hóa, gắn liền với vẻ đẹp cảnh quan, di tích lịch sử, với các lễ hội, festival ca múa nhạc mang màu sắc địa phương, du lịch làng nghề với các sản phẩm văn hóa biểu tượng cho mỗi vùng miền,…nên cần được liên kết thành các “tua”, với sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều địa phương mới thu hút được du khách đến và ở lại trong nhiều ngày.
Quan trọng hơn là cần chú trọng xây dựng hình ảnh con người Việt Nam hiện đại - với tư cách là “sứ giả” của văn hóa - để họ biết nên có, cần có thái độ như thế nào khi tiếp xúc với du khách nước ngoài (nụ cười thân thiện, lòng hiếu khách, sự giúp đỡ vô tư không vụ lợi, rồi ngôn ngữ, y phục, cách ứng xử, giao tiếp,…phải tỏ ra là người dân của một nước văn hóa). Còn nếu chỉ biết đeo bám, xin xỏ, gian lận, lừa lọc, chặt chém,…thì họ chỉ làm cái việc đuổi khách “một đi không trở lại” chứ nói gì đến phát huy sức mạnh mềm! Nói cách khác, muốn hấp dẫn được người ta, trước tiên phải làm cho mình trở nên hấp dẫn đã, nghĩa là phải nhanh chóng khắc phục được những nhược điểm, khuyết tật tự thân về văn hóa, lối sống của mỗi người dân chúng ta, bắt đầu từ trong gia đình, học đường rồi ra đến ngoài xã hội.
2.2. Tăng cường sức mạnh mềm của “ngoại giao công chúng” để giúp họ cập nhật những thông tin đúng đắn về Việt Nam.
Ngoại giao công chúng khác với ngoại giao nhà nước ở chỗ nó không nhằm tác động đến các chính phủ; đối tượng mà nó hướng đến là công chúng, là các tổ chức phi chính phủ, tiếng nói của nó thể hiện sự đa dạng các quan điểm của cá nhân, như là một sự bổ sung vào quan điểm của chính phủ.
-Ngoại giao công chúng có thể được tiến hành bằng nhiều con đường, nhưng trước hết cần tận dụng con đường truyền thông.
Trong cuộc xung đột Biển Đông, trước đây cũng như hiện nay, chính nghĩa thuộc về Việt Nam, nhưng chính nghĩa đó chưa được chúng ta diễn giải rõ ràng cho nhân dân Trung Quốc hiểu, do sự tuyên truyền bóp méo của truyền thông phía họ, đại bộ phận nhân dân Trung Quốc vẫn có cái nhìn sai lầm về Việt Nam, bởi các nhà cầm quyền Trung Quốc luôn luôn tuyên truyền ngụy tạo rằng các cuộc chiến 1974, 1979, 1988 là do phía Việt Nam gây ra, nên có đến 85 % người dân Trung Quốc đồng tình phải tiến đánh Việt Nam.
Trên Biển Đông hiện nay, Trung Quốc đang làm những việc ngang ngược, thô bạo, cư xử vô nhân đạo với ngư dân Việt Nam, như các vụ Bình Minh 02, Viking II, Cỏ Rong,…rồi bằng sức mạnh truyền thông áp đảo, họ đã đánh đồng kẻ gây hấn với người bị gây hấn.
Ngược lại, các hành động nhân đạo của Việt Nam đã cứu hộ ngư dân Trung Quốc mắc nạn do thời tiết, lại chỉ được đưa tin trên báo chí Việt Nam, người dân Trung Quốc không hề  biết đến, do sức mạnh của truyền thông Việt Nam chưa được phát huy tốt. Chúng ta hiện có hơn 700 ấn phẩm báo chí, gần trăm đài phát thanh-truyền hình, trong đó có không ít được xuất bản và truyền hình bằng tiếng Anh, tiếng Trung,…ta cần xúc tiến liên tục, bền bỉ các chương trình truyền thông (về văn hóa Việt Nam, về thực trạng Biển Đông, về chủ quyền biển đảo của Việt Nam trong lịch sử,…) hướng về phía nhân dân Trung Quốc và các nước Asean, thông tin cho công chúng nước họ biết, đòi hỏi chính phủ họ phải tôn trọng luật pháp quốc tế. Đó chính là một sức mạnh mềm để cải thiện hình ảnh và tìm kiếm sự ủng hộ của công chúng các nước trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền đất nước và biển đảo của ta.
Cần nhớ lại rằng bức tường Berlin sụp đổ không phải bằng bom đạn quân sự mà chủ yếu bằng sức mạnh của thông tin-truyền thông. Trong chiến tranh lạnh, ngoài sức mạnh của ngoại giao văn hóa như nghệ thuật, sách báo, phim ảnh,… Mỹ và các nước phương Tây đã sử dụng sức mạnh của truyền thông, liên tục phát đi các chương trình của Đài phát thanh Tự do và Đài phát thanh Châu Âu Tự do, hướng vào công chúng các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, bào mòn dần lòng tin của họ vào tương lai của chủ nghĩa xã hội. Do đó, người ta cũng gọi thông tin- truyền thông là một hình thức “ngoại giao công chúng” (public diplomacy).
-Thông tin là sức mạnh. Nhưng ở thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, thông tin trở nên bội thực, trong đống hỗn độn ấy, người ta không biết tin vào cái gì, cái nào là giả, cái nào là thật? Cách đưa tin của thời chiến tranh lạnh đã mất chỗ đứng trong lòng tin người nghe. Chân thật, chính xác, đáng tin cậy phải trở thành tiêu chí quan trọng hàng đầu của sức mạnh mềm truyền thông, bởi chính trị là địa hạt giành giật lòng tin, các thông tin nếu quá thiên về tuyên truyền, thiếu sự khả tín quốc gia, không thể biến thành sức mạnh mềm. Người nghe ngày nay thường không quá tin vào các nguồn tin chính thức của nhà nước, nên họ đã tranh thủ đi tìm thông tin từ nhiều con đường khác nhau.
Vì vậy, nội dung của “ngoại giao công chúng” còn được thực hiện thông qua  hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn kinh tế, các hội thảo khoa học, các khóa tập huấn, các chươg trình tài trợ cho du học sinh, các cuộc trao đổi, giao lưu văn hóa - nghệ thuật,… với sự tham gia của các nhà hoạt động xã hội, nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo có tên tuổi,…Trong các cuộc giao lưu, tiếp xúc với công chúng ở các nước sở tại thường diễn ra các cuộc phỏng vấn, tọa đàm, đối thoại hai chiều, trao đổi trong phạm vi hẹp, những thông tin công chúng họ thu được tại đây sẽ có tính thuyết phục hơn, trở nên đáng tin cậy hơn.
-Ngoại giao công chúng sẽ đạt hiệu quả tốt nhất nếu nó được thuyết phục bằng hành động, bởi hành động bao giờ cũng mạnh hơn mọi lời nói. Một thí dụ điển hình là Na-uy, một nước chỉ có 5 triệu dân, không có ngôn ngữ quốc tế, văn hóa xuyên quốc gia, không nằm ở trung tâm châu Âu, cũng không phải là thành viên của EU,…nhưng lại là một quốc gia có vị thế, có tiếng nói vượt ra ngoài kích thước và tài nguyên khiêm tốn của mình, đó là vì họ đã có những hoạt động đóng góp tích cực vào nền  hòa bình trên thế giới: hòa giải cho các xung đột tại Trung Đông, Sri Lanka, Columbia; đóng góp đáng kể vào các quỹ viện trợ cho nhiều nước; là thường trực của các lực lượng giữ gìn hòa bình trên thế giới,…Dĩ nhiên trong ứng xử quốc nội, Na-uy cũng có vấn đề của họ, nhưng xét về tổng thể, Na-uy là một nước nhỏ nhưng đã biết cách khai thác một thế mạnh trong hoạt động ngoại giao để khuếch trương hình ảnh và vị thế quốc gia nhỏ bé của mình.
Việt Nam, tùy theo khả năng hiện nay, có thể từng bước tham gia vào  hoạt động của các tổ chức quốc tế, vào giải quyết các vấn đề như biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái, cho quân đội tham gia cứu trợ, cứu nạn trên Biển Đông hay tham gia các lực lượng bảo vệ hòa bình của LHQ, v.v..Thông qua những hoạt động đó, hình ảnh Việt Nam sẽ được cải thiện rất nhiều trong con mắt của thế giới.
                                                    *
Việt Nam sẽ triển khai sức mạnh “ngoại giao văn hóa” của mình như thế nào? Ở thế kỷ trước, chúng ta đã một thời là trung tâm thu hút được sự yêu mến và kính trọng của loài người tiến bộ vì đã đi tiên phong và giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh cho độc lập tự do và phẩm giá con người - một chàng David bé nhỏ đã quật ngã được gã khổng lồ Goliath - làm cho chính đối thủ cũng phải nể phục. Tiếc thay, sức mạnh mềm ấy nay đã là chuyện của quá khứ, ta không thể cứ mãi “ăn mày dĩ vãng”.
Để tạo ra sức mạnh mềm mới, có lẽ ta cần tỉnh táo, sáng suốt định vị lại mình là ai, đang ở vị thế nào trong thế giới hiện đại, cần phải thay đổi những gì để có thể tái thu hút được sự yêu mến và cảm phục của nhân loại như một thời ta đã có ? Những câu hỏi ấy thật không dễ trả lời. Vậy xin tạm ngừng tại đây để được nghe  kiến giải của các bậc cao minh.
 
                                                                     Hà Nội, tháng  2 - 2014
Nguồn: viet-studies