Đọc lại và suy ngẫm. Sau "Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau" (Hiệp ước Hitler-Stalin hay Ribbentrop - Molotov) là "Nghị định thư bí mật" giữa Liên Xô và Đức thỏa thuận phân chia Ba Lan và thống nhất phân vùng ảnh hưởng đối với các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, Lithuania, Roman. Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan và ngày 17-9-1939, Hồng quân Liên Xô tiến vào miền Đông Ba Lan, hoàn thành việc phân chia lãnh thổ Ba Lan.
"Sự kiện bi thảm Katyn" là vết đen lịch sử trong quan hệ Liên Xô - Ba Lan với 21.857 tù nhân Ba Lan đã bị Liên Xô bí mật sát hại. (Họ phần lớn là tầng lớp tinh hoa, sĩ quan Ba Lan cấp tá trở lên, không đồng chính kiến với Liên Xô). Sự quyết định xử bắn toàn bộ tù binh Ba Lan bị giam giữ do bởi I.V. Stalin, K. Voroshilov, V. Molotov và A.Mikoyan, với sự đồng ý của M.Kalinin, L.Kaganovich, chuẩn y đề nghị của L. Beria, và giao trách nhiệm hoàn tất công việc cho V. Merkulov, B. Kobulov và L.Bashtako. Trong số 21.857 tù nhân Ba Lan có 4.421 bị bắn đầu tiên tại Katyn (vùng Smolensk), kế đến là 3.820 người bị bắn tại trại Starobelsk gần Kharkov, 6.311 người bị bắn tại trại Ostashkov (vùng Kalinin), 7.305 người bị bắn chết trong các nhà tù phía Tây Ukraine và Tây Belorusia.
Nguyễn Thị Mai Hoa, trong tài liệu "Katyn: Giải mã bí ẩn lịch sử", đã đánh giá: "Vẫn chưa có một kết cục cuối cùng cho “vấn đề Katyn” – một kết cục vừa có thể xoa dịu nỗi đau, chữa lành nỗi ám ảnh của thân nhân những người bị thảm sát, lại vừa có thể thỏa mãn được nước Nga hiện đại đang có những tranh luận khác nhau về quá khứ, nhằm cổ vũ cho những giá trị trường tồn, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, phục vụ mục tiêu chấn hưng đất nước, khôi phục vị thế cường quốc. Có lẽ, không có cách nào khác hơn để chia tay với nỗi đau bằng cách dũng cảm nhìn nhận / thừa nhận nó. Và trên hết, không thể đầu cơ lịch sử! Với quá khứ, với lịch sử, luôn cần sự thẳng thắn, công tâm và trung thực".
Tôi đồng tình với ý kiến trên. Và chợt bùi ngùi nhớ ,...
xem tiếp ... 
   KATYN – GIẢI MÃ BÍ ẨN LỊCH SỬ
   Nguyễn Thị Mai Hoa
 
   Trong 
   những năm tháng tồn tại, Liên Xô đã có không ít bí mật, trong đó, có 
   những bí mật có khả năng ảnh hưởng đến uy tín và an ninh quốc gia; 
   vì thế, được che chắn, bảo vệ một cách hết sức cẩn trọng với nỗ lực 
   của cả hệ thống chính trị. Chỉ sau khi Liên bang Cộng hòa XHCN 
   Xô-viết sụp đổ, với độ lùi thời gian và dưới tác động của các yếu tố 
   khách quan, chủ quan, những bí mật đó mới dần được hé lộ. Một trong 
   những bí mật như vậy có tên gọi “Sự 
   kiện bi thảm Katyn”.
   
   1- Sự biến mất đầy bí ẩn 
   của những tù binh Ba Lan
   Cho 
   đến mùa Hè năm 1939, I.V. 
   Stalin có đầy đủ lý do để nghi ngờ Pháp và Anh không thực sự muốn 
   liên minh quân sự với Liên Xô. Việc Ba Lan từ chối cho phép Hồng 
   quân đóng trên đất Ba Lan trở thành trở ngại chính cho việc phòng 
   thủ của Liên Xô; việc hình thành liên minh Nga-Anh-Pháp bảo vệ Ba 
   Lan khó thành hiện thực… những diễn biến đó khiến lãnh đạo Liên Xô 
   ngả sang đề nghị an ninh của Hitler. Ngày 23-08-1939, Ngoại trưởng 
   V.M. Molotov đại diện cho Liên Xô và Ngoại trưởng J.V.Ribbentrop - 
   đại diện cho nước Đức Quốc xã  ký kết Hiệp ước không xâm 
   lược lẫn nhau (còn được biết đến dưới cái tên Molotov–Ribbentrop hay 
   Hiệp ước Hitler-Stalin) kèm với một Nghị định thư bí mật. Ngoài việc 
   cam kết kiềm chế không tấn công lẫn nhau và giữ thái độ trung lập 
   trong trường hợp một trong hai bên trở thành mục tiêu những hành 
   động quân sự của bên thứ ba bất kỳ, Liên Xô và Đức còn thống nhất 
   phân vùng ảnh hưởng đối với các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, 
   Lithuania, Roman; đồng thời, thỏa thuận phân chia Ba Lan. Ngày 
   1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan và ngày 17-9-1939, Hồng quân Liên Xô 
   tiến vào miền Đông Ba Lan, việc phân chia lãnh thổ của Ba Lan giữa 
   Liên Xô và Đức được hoàn thành – điều đó cũng có nghĩa là cần “thiết 
   lập những trật tự nhất định” tại Ba Lan. Bắt đầu từ thời điểm đó, 
   những sĩ quan Ba Lan bất hợp tác với Liên Xô, những cảnh sát, hiến 
   binh, điệp viên, chủ xưởng, chủ đất, viên chức chính quyền cũ, thậm 
   chí cả những người tị nạn, dân thường Ba Lan… được chuyển đến giam 
   giữ tại các trại đặc biệt ở vùng Ostashkov, Kozielsk và Starobilsk 
   (Liên Xô), song không được hưởng những quy chế Công ước Geneva đối 
   với tù binh. 
   
   Một 
   khoảng thời gian sau đó, những tù binh này bỗng bặt tin,“biến mất” 
   một cách bí ẩn, thân nhân không còn nhận được tin tức của họ, thư 
   từ, quà, bưu phẩm gửi cho các tù binh đều bị chuyển trả lại. Mọi nỗ 
   lực tìm kiếm thông tin về các tù binh, về nơi họ bị giam giữ đều rơi 
   vào vô vọng. 
   Tháng 11-1941, trong dịp tiếp kiến I.V.Stalin, Đại sứ Ba Lan 
   Stanislaw Kot đã hỏi về số phận những tù nhân Ba Lan, song 
   I.V.Stalin lảng tránh trả lời bằng cách thay đổi chủ đề câu chuyện. 
   Tháng 12-1941, một lần nữa, Tướng Wladislaw Anders
   - 
   Tổng tư 
   lệnh Quân đội Ba Lan 
   quay trở lại vấn đề trên, song I.V.Stalin một mực khăng khăng: 
   “Những tù binh Ba Lan đã được ân xá hết, có thể do những khó khăn về 
   phương tiện giao thông, nên họ chưa thể về tới Ba Lan”[1]. 
   Cho tới mùa Xuân năm 1942, số phận các tù nhân Ba Lan là chủ đề của 
   nhiều cuộc thảo luận giữa chính phủ Liên Xô và Ba Lan. Nhiều 
   lần, I.V.Stalin 
   khẳng định dứt khoát: 
   “Không có bất kỳ một người Ba Lan nào 
   trong các nhà tù, trại tạm giam của Liên Xô, ngoại trừ những tù hình 
   sự hoặc những tội phạm có dính líu đến phát-xít Đức”[2].
   Thậm chí, có lần 
   I.V.Stalin còn 
   nói 
   rằng, số tù binh này đã trốn thoát tới Mông Cổ[3] 
   (?!). 
   
   Ngày 
   28-1-1942, Bộ trưởng Rachinsky thay mặt chính phủ Ba Lan trao cho 
   Đại sứ Liên Xô Bogomolov Bản ghi nhớ về 
   sự  
   mất tích khó hiểu 
   của  
   hàng chục ngàn sĩ quan 
   và công dân Ba 
   Lan.
   
   Đáp lại, câu trả lời từ phía Liên Xô vẫn hết 
   sức mập mờ, mâu thuẫn.
   
    Sự biến mất phi lý của 
   hàng chục ngàn con người khiến ngày 
   càng có nhiều tổ chức kháng chiến Ba Lan vào cuộc. 
   Các nỗ lực  điều tra trở nên tích cực 
   hơn từ năm 1943, có điều, chính quyền Xô-viết – từ đầu đến cuối – 
   vẫn bác bỏ mọi giả thuyết về trách nhiệm 
   và sự can dự  
   của mình.
   
   2- Những bí mật dần phát lộ
   
   Năm 1943, 
   quân đội Đức Quốc  xã
   
   tìm thấy hàng loạt 
   ngôi mộ tập thể tại rừng Katyn  
   (cách 
   thành phố Smolensk 18 km về phía Tây)  
   sau khi chiếm đóng khu vực này  
   vào 
   năm 1941. 
   Trong những ghi chép 
   của mình, 
   Bộ trưởng Tuyên truyền Đức 
   J. Goebbels gọi sự kiện này là “món quà hiếm có của số phận”, “con 
   át chủ bài”, đảm bảo cho một chiến dịch tuyên truyền nhiều mặt chống 
   lại Liên Xô. Quả bom  
   Katyn “đủ để gây ra một đòn đau đớn, 
   đánh mạnh vào tâm 
   tư, tình cảm  
   của những người dân Ba Lan ủng hộ liên minh chống 
   phát-xít, 
   nổ tung vào mối liên kết lỏng lẻo giữa chính phủ Liên Xô và Ba Lan”[4].
   
   Ngày 
   18-2-1943, người Đức bắt đầu đào các ngôi mộ tập thể, đến ngày 
   13-4-1943, có chừng 400 thi thể được khai quật. Cũng trong ngày 
   13-4-1943, Đài phát thanh Berlin đưa tin nước Đức tìm thấy hơn 
   10.000 thi thể các sĩ quan Ba Lan bị giết tại vùng  Katyn, khẳng 
   định “đây chính là thi thể các sĩ quan Ba Lan bị Liên Xô bắt làm tù 
   binh khi chiếm đóng miền Đông Ba Lan”[5]. 
   Ngày  
   17-4-1943, chính phủ Ba Lan lưu vong ra Tuyên bố “lên án mọi 
   tội ác chống lại các công dân Ba Lan”[6], 
   yêu cầu chính phủ Liên Xô một lời giải thích về vụ việc này và đề 
   nghị Hội Chữ 
   thập đỏ quốc tế tham gia làm rõ vấn đề. 
   Ngày 21-4-1943, TASS ra Tuyên bố với lập trường cứng rắn: 
   “Một chiến dịch chống Liên Xô bắt đầu trên báo chí Đức và Ba Lan - 
   thực tế này cho thấy chiến dịch 
   bôi nhọ Liên Xô được tiến hành bởi
   sự  
   thỏa thuận 
   bẩn thỉu  
   với những kẻ xâm lược Đức”[7]. 
   Trong một động thái quyết liệt hơn, lãnh đạo Liên Xô đã cảnh báo các 
   đồng minh 
   Anh và Mỹ  
   về ý định cắt đứt quan hệ ngoại giao với chính phủ Ba 
   Lan Sikorski, 
   với lý 
   do: “Thời gian gần đây, hành vi của Chính phủ Ba Lan đối với Liên Xô 
   hoàn toàn bất thường, phá vỡ tất cả các quy tắc và chuẩn mực của 
   quan hệ đồng minh. Chiến dịch vu khống chống Liên Xô được phát xít 
   Đức đưa ra liên quan đến việc các sĩ quan Ba Lan bị giết trong khu 
   vực Smolensk, trên lãnh thổ Đức chiếm đóng, lập tức được chính phủ  
   Ba Lan nắm lấy và thông tin rầm rộ trên báo chí 
    (…). 
   Tất cả những điều đó khiến chính phủ Liên Xô không thể không nhận 
   thấy chính phủ Ba Lan đang đi vào con đường thông đồng với chính phủ 
   Hitler, muốn chấm dứt quan hệ đồng minh và trở nên thù địch với Liên 
   Xô”[8]. 
   Quả thật, J. Goebbels đã dự đoán không sai, “quả bom chính trị
   
   Katyn” đã phát nổ, vấn đề Katyn trở 
   thành một trong những "điểm đau đớn” trong quan hệ Liên Xô - Ba Lan 
   không chỉ tại thời điểm đó, mà còn  
   mãi 
   về sau này.
   
   Với mục tiêu hạ uy tín và tuyên truyền về sự tàn bạo 
   của Liên Xô đối với tù binh, 
   ngày 16-4-1943, phía Đức 
   mời Hội Chữ thập đỏ quốc tế và đại diện một số tổ chức xã hội Ba Lan 
   trong vùng bị phát-xít Đức chiếm đóng đến tham dự việc khai quật và 
   khám nghiệm tử thi tại 8 ngôi mộ tập thể. Trong số các xác chết được 
   khai quật, 
   
   người ta 
   tìm thấy tử thi hai vị tướng Ba Lan Bronisław Bohatyrewicz và 
   Mieczysław Smorawiński. Từ ngày 15-4 đến ngày 15-6-1943, tổng cộng 
   hơn 4.100 xác chết được khai quật; 2.800 tử thi được nhận dạng[9]. 
   Công việc thu thập tư liệu và nhận dạng tử thi được tiến hành một 
   cách khoa học, chú trọng  
   
   luận giải 
   cách thức 
   và loại hình 
   hung khí thực hiện thảm sát. Đã thu thập được 
   nhiều luận cứ chứng minh cho sự vô tội của người Đức: Những thư từ 
   còn lại trong thi 
   thể các nạn nhân đều có thời gian dừng lại ở năm 1940; tuổi của 
   những cây 
   cối 
   mọc trên mộ,  
   các chỉ 
   số đo đạc 
   phân tử canxi trên hộp sọ tử thi… đều cho chung một 
   kết quả về thời điểm của vụ thảm sát - năm 1940, khi mà người Đức 
   chưa có mặt ở vùng này. 
   
   
   Ngày 3-6-1943, việc khai 
   quật bị dừng lại do diễn biến chiến sự, nhưng  
   
   những phân tích, kết luận của toàn bộ quá trình 
   đã được nước Đức kịp xuất bản thành “Tập tài liệu chính thức về 
   vụ thảm sát tại Katyn” (Amtliches 
   Material zum Massenmord von Katyn, Berlin, 1943), khẳng định Liên Xô 
   phải chịu hoàn toàn tránh nhiệm về cái chết của 
   11.000 tù nhân Ba Lan[10]. 
   Tài liệu này được dịch ra 
   hầu hết các ngôn ngữ châu Âu, lưu hành trên các vùng Đức chiếm đóng 
   và ở các nước đồng minh của Đức.
   
   Sau khi Hồng quân tiến vào 
   vùng Smolensk và đẩy lùi quân đội Đức, Liên Xô thành lập một Ủy ban 
   đặc biệt điều tra tội ác của quân đội phát-xít Đức trong rừng 
   Katyn. 
   Tháng 1-1944, Ủy ban này công bố một loạt 
   “chứng cứ” chứng minh vụ thảm sát Katyn là do quân đội Đức gây ra. Năm 
   1945, I.V. Stalin quyết định tháo “nút 
   thắt Katyn” bằng cách đưa vụ thảm sát ra Toà án Quân sự tại 
   Nürnberg. Công tố viên Liên Xô, 
   Tướng 
   R.A. Rudenco đã buộc tội phát xít Đức thảm sát 11.000 tù binh Ba Lan 
   tại Katyn; tuy nhiên, Toà án Quân sự tại Nürnberg đã không đi đến 
   một phán xét chung cuộc, vì phía Liên Xô không đưa ra được những 
   bằng chứng thuyết phục. Ngày 22-12-1955, sau nhiều 
   nỗ lực 
   vận động của cộng đồng người Ba Lan tại Mỹ, một Ủy ban của Thượng 
   viện Hoa Kỳ đề nghị chính phủ Hoa Kỳ đưa 
   vụ Katyn lên Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và buộc tội Liên Xô trước 
   Tòa án Quốc tế (International Court of Justice) tại 
   Netherlands, song đề 
   nghị này không được chính phủ Mỹ chấp thuận.
   
    Năm 1953, 
   I.V. Stalin chết, bắt đầu “thời kỳ tan băng 
   Khrushchev”, thắp lên hy vọng về một kỷ nguyên mới trong quan hệ 
   quốc tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa, song để đảm bảo "sự thống 
   nhất và đoàn kết", Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô N.
   Khrushchev đã không vượt qua “phương pháp 
   áp lực trực tiếp” đối với nước láng giềng Ba Lan; vì thế, “vấn đề
   Katyn”  
   không thể khêu 
   lên.  Phục vụ 
   mục tiêu nói trên,
   cuối 
   những năm 50 (XX), dưới chỉ đạo của N. Khrushchev, A.Shlepin[11] 
   đã bí mật nghiên cứu hồ sơ vụ Katyn. Ngày 3-03-1959, A.Shlepin đệ 
   trình Văn bản N-632-SH (Н-632-Ш), kiến nghị tiêu huỷ 21.857 
   cặp tài liệu về các nạn nhân Katyn – những tài liệu như A.Shlepin 
   giải thích, chẳng những “không có bất kỳ ý nghĩa thực tiễn cũng như 
   giá trị lịch sử đối với chính phủ Liên Xô (…) và có lẽ chúng cũng 
   không phải là mối quan tâm thực sự đối với những bạn bè Ba Lan”[12]; 
   trái lại, nếu ngẫu nhiên bị phát hiện, “có thể dẫn đến những hậu quả 
   vô cùng bất lợi cho Nhà nước Xô-viết”[13]. 
   A. Shlepin đề nghị giữ lại những hồ sơ quan trọng nhất: “Biên bản 
   cuộc họp  
   Troika[14] 
   NKVD đồng ý xử bắn 
   tù binh Ba Lan và những văn bản thực hiện quyết định đó. Do 
   khối lượng của các tài liệu này không đáng kể, 
   nên có thể lưu trữ chúng trong 
   một  cái cặp 
   đặc biệt (…) phòng 
   trường hợp phát sinh những chất vấn từ Trung ương Đảng Cộng sản Liên 
   Xô hoặc chính phủ Liên Xô”[15]. 
   Ngay sau đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã chuẩn y 
   đề nghị của A. Shlepin, chỉ giữ lại những hồ sơ quan trọng, được tập 
   hợp thành 
   một bộ “Hồ sơ đặc biệt № 1”. “Hồ sơ đặc biệt № 1” được 
   bảo quản theo chế độ tuyệt mật và chỉ những người lãnh đạo cao nhất 
   của Đảng Cộng sản Liên Xô mới có quyền tiếp cận.
   
   Trong những năm 1971-1976, một số nước phương Tây 
   (đặc biệt là nước Anh) liên tục đòi làm sáng tỏ vụ việc Katyn, đề 
   nghị đưa ra Tòa án Quốc tế
   tại Netherlands. Phản ứng với “chiến dịch chống đối, bôi nhọ 
   Nhà nước Xô viết dựa trên việc 
   bóp méo sự thật lịch sử về các thủ phạm thực sự của thảm kịch Katyn,
   nhằm làm căng thẳng tình 
   hình quốc tế”[16] 
   – như Liên Xô nhiều lần khẳng định, năm 1978, Liên Xô dựng bia tưởng 
   nhớ nạn nhân tại Katyn với dòng chữ: “Nạn nhân của chủ nghĩa phát 
   xít – những sĩ quan Ba Lan bị bắn chết bởi quân đội Hitler năm 1941”.
   
   Cho đến trước khi Liên Xô thực hiện cải cách (perestroika) 
   năm  1986, “câu 
   chuyện Katyn” vẫn là điều húy kị, nhạy cảm, bị nghiêm cấm nhắc tới 
   trong các tranh luận xã hội với lý do “ảnh hưởng tiêu cực đến tình 
   cảm dân tộc và tình hữu nghị Liên Xô-Ba Lan (…) gây nên những “vết 
   đen” trong quan hệ hai nước”[17].
   
   Tiến 
   hành “perestroika”, thực hiện “glasnost”, 
   với “người đồng minh Ba Lan”, Tổng Bí thư Đảng Cộng 
   sản Liên Xô M. Gorbachev đặt mục tiêu “phát triển quan hệ 
   chặt chẽ, vững chắc, đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau nhằm cùng tiến hành 
   cải cách một cách tối ưu”[18]. 
   Trong tiến trình thắt chặt toàn diện quan hệ Liên Xô - Ba Lan, Tổng 
   bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô M. 
   Gorbachev và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Ba Lan W.Jaruzelski 
   ký Hiệp định về hợp tác Liên Xô - Ba Lan trong lĩnh vực tư tưởng, 
   văn hóa và khoa học (1986); theo đó, hai bên “chú trọng cùng 
   nghiên cứu lịch sử quan hệ giữa hai nước, hai Đảng, hai dân tộc, 
   không để tồn tại “những vết đen” trong lịch 
   sử hai nước, nhằm tăng cường tình đoàn kết, chống lại những luận 
   điệu chia rẽ”[19]. 
   Trên quan điểm “không để lịch sử đốt lên hận 
   thù dân tộc”, W.Jaruzelski bày tỏ mong muốn 
   “những trang sử quan hệ Liên Xô – Ba Lan phải được nhìn nhận một 
   cách thực sự cởi mở và trung thực”[20]. 
   Tiếp nối dòng chảy sự kiện, ngày 19-5-1987, tại Moscow diễn ra phiên 
   họp toàn thể đầu tiên Ủy ban Liên Xô - Ba Lan về lịch sử quan hệ 
   song phương, “vấn đề  
   Katyn” được đưa vào chương trình nghị sự, song những nghiên cứu về 
   sự kiện này diễn tiến khá trì trệ, “bí mật Katyn” được khai lộ một 
   cách chậm chạp, bị chi phối bởi 
   tư tưởng giáo điều, 
   bởi các yếu tố chính trị trong nội bộ mỗi nước và trong quan 
   hệ Liên Xô - Ba Lan. Đến ngày 
   13-4-1990, sau rất nhiều chần chừ, một số tư liệu lưu trữ liên quan 
   đến sự kiện Katyn mới được chuyển giao cho Tổng thống 
   W.Jaruzelski 
   
   nhân chuyến 
   thăm Liên Xô. Ngày 13-4-1990, TASS ra Tuyên bố chính thức 
   thừa nhận trách nhiệm của Liên Xô trong “thảm kịch Katyn”[21], 
   nói rõ: “Tài liệu tìm thấy trong kho lưu trữ cho phép kết luận về 
   vai trò, trách nhiệm của Beria,  
   Merkulov và các đồng sự”[22]. 
   TASS đồng 
   thời bày tỏ sự hối tiếc sâu sắc về sự kiện bi thảm Katyn, gọi đó là 
   “một trong những tội ác khủng khiếp nhất của 
   chủ nghĩa
   
   Stalin”[23].
   
   
   
    Tháng 
   6-1991, B. Yeltsin trở thành Tổng thống Liên bang Nga và
   ngay lập tức đã nhận thấy
   “vấn đề 
   Katyn” – vào thời điểm đó - có thể 
   có lợi cho những diễn biến chính trị nội bộ của nước Nga liên quan 
   đến việc xóa bỏ Điều 6 trong Hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng 
   Cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Liên Xô ra ngoài vòng pháp luật[24]. 
   “Hồ sơ Katyn” chính là một chứng cứ 
   thuyết phục cho 
   B.Yeltsin “luận tội” chủ nghĩa 
   Stalin và Đảng Cộng sản Liên Xô. 
   Nhằm chứng minh cho tính bất hợp pháp của
   Đảng Cộng sản Liên Xô, theo 
   lệnh của B.Yeltsin, kho lưu trữ tư 
   liệu Đảng Cộng sản Liên Xô được mở, hơn 6.000 
   các tài liệu tuyệt mật được giải mã, kể cả bộ sưu tập tài liệu về vụ 
   thảm sát Katyn[25]. 
   Ngày 24-9-1992, “Hồ sơ đặc biệt № 1” được mở ra và 
   trước tính chất nghiêm trọng của nó, Tổng 
   thống B.Yeltsin đã có một quyết 
   định nhanh chóng: Lệnh chuyển ngay lập tức toàn bộ những tài liệu 
   “chết người” này cho Ba Lan; đồng thời, chuyển một bản sao đến Tòa 
   án Hiến pháp và Viện kiểm sát tối cao[26].
   Ngày 14-10-1992, “Hồ sơ đặc biệt № 1” được đại diện 
   chính phủ Nga trao cho Tổng thống Ba Lan 
   Walesa và nội dung của nó nhanh chóng được công bố trước công 
   luận Ba Lan. Sau sự kiện này, ngày 
   15-10-1992, trả lời phỏng vấn của Đài truyền hình Ba Lan, B.Yeltsin 
   “hào hứng nói về những tội ác khủng khiếp 
   của chủ nghĩa Stalin, bày tỏ hy vọng rằng nó sẽ không còn là điểm 
   nghẽn trong quan hệ song phương Nga - Ba Lan”[27].
   
   3- Toàn cảnh sự kiện 
   Những 
   diễn giải trên đây cho thấy, đến trước năm 1992, trên các văn bản 
   chính thức của Liên Xô, kẻ bị buộc tội gây ra vụ thảm sát
   Katyn là quân đội 
   Đức Quốc xã. Chỉ đến năm 1992 (khi Liên bang Cộng hòa XHCN 
   Xô-viết sụp đổ một năm), sau rất nhiều toan tính chính trị, Liên 
   bang Nga mới công bố những tài liệu trong bộ “Hồ sơ đặc biệt № 1” 
   về vụ thảm sát Katyn[28]. 
   Giải mã bộ Hồ sơ, câu chuyện về vụ thảm sát
   Katyn được hình dung như sau:
   Ngày 
   3-3-1940, L.Beria[29] 
   gửi đến Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng 
   sản Liên Xô (b) Văn bản №  
   794/B[30],
   
   báo cáo: “Trong các trại 
   giam và trại tạm giam ở phía Tây Ucraina và Tây Belaruxia hiện đang 
   giam giữ một số lượng lớn các sĩ quan cũ của quân đội Ba Lan, cảnh 
   sát Ba Lan, các nhân viên tình báo, thành viên các tổ chức phản cách 
   mạng, người tị nạn, lực lượng nổi dậy và một số người khác (…) tất 
   cả bọn họ đều là kẻ thù truyền kiếp, chứa đầy thù hận với chính 
   quyền Xô viết”[31]. 
   L.Beria khẳng định: “Những tù binh này dù đang bị giam giữ song vẫn 
   cố gắng, nỗ lực tiếp tục tuyên truyền chống Liên Xô và chỉ chờ được 
   phóng thích là sẵn sàng tích cực tham gia vào cuộc chiến chống lại 
   chế độ Xô viết”[32]. 
   L.Beria thống kê: “Trong các trại giam tù binh chiến tranh hiện giam 
   giữ tổng cộng (không tính các binh sĩ và hạ sĩ quan) 14.700[33] 
   tù binh người Ba Lan gồm các quan chức của bộ máy chính phủ, các chủ 
   đất, cảnh sát, điệp viên, hiến binh, cai ngục; trong số đó, 97% mang 
   quốc tịch Ba Lan (…). Ở trại giam ở vùng miền Tây Ukraina và
   Belorusia có tổng cộng 18.632[34] 
   người bị bắt giữ (trong đó có 10.685 người Ba Lan”[35]. 
   Sau khi kết luận rằng, “xuất phát từ thực tế bọn họ đều là những kẻ 
   thù sắt đá không đội trời chung với chính quyền Xô-viết, không có 
   khả năng cải hóa”, L.Beria đề nghị “giao cho NKVD xem xét, giải 
   quyết, xử lý toàn bộ 14,700 trường hợp tù binh Ba Lan và 11.000 
   trường hợp tù binh tại các nhà tù phía Tây Ukraine và Tây Belorussia 
   bằng các thể thức đặc biệt với hình thức trừng phạt cao nhất (…), 
   không cần bất kỳ một cuộc hỏi cung, xét xử, luận tội và kết án chính 
   thức”[36]. 
   L.Beria đề cử giao cho L.Beria, V.Merkulov và L.Bashtakov 
   thực hiện quyết định nêu trên[37].
   Xem 
   xét đề nghị của L.Beria, ngày 5-3-1940, 
   một số thành viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (b) 
   biểu quyết thông qua Quyết định 
   No.13/144 (gồm I.V.Stalin, 
   K.Voroshilov, V. Molotov và A.Mikoyan[38], 
   kèm ghi chú: M.Kalinin - đồng ý; L.Kaganovich - đồng ý)[39],
   chuẩn y đề nghị của L.Beria xử bắn 
   toàn bộ số tù binh Ba Lan đang bị giam giữ; giao trách nhiệm hoàn 
   tất công việc cho “bộ ba” V.Merkulov, B.Kobulov và  
   L.Bashtako[40].
   Ngày 
   22-03-1940, L. Beria ký Sắc lệnh No. 00350, “Về việc sơ tán các 
   nhà tù của Cộng hòa XHCN Ukraina và Cộng hòa XHCN Belorusia”, 
   chỉ đạo thực hiện một kế hoạch thảm sát lớn nhất và ghê rợn nhất 
   lịch sử thế giới thế kỷ XX, mang mật danh 
   “Chiến dịch giảm tải trại tù”[41].
   
   
   Chưa đầy một tháng sau quyết định nói 
   trên, các công việc chuẩn bị cho cuộc thủ tiêu tù bình Ba Lan được 
   xúc tiến khẩn trương. NKVD lên kế hoạch vận chuyển tù nhân đến chỗ 
   xử bắn: Các tù nhân đang bị giam giữ tại vùng phía Tây 
   Ukraina được chuyển tới Kharkov, Kherson 
   và Kiev, các tù nhân ở 
   Belorusia được chuyển về 
   Minsk, còn các tù nhân ở Ostashkov được chuyển tới Kalinin. Ở làng
   Mednoye, không xa Kalinin, các máy 
   xúc bắt đầu đào những chiếc hố lớn.
   
   Đầu tháng 4-1940, những chuyến xe chở tù 
   nhân bắt đầu lăn bánh, mỗi đợt, vận chuyển khoảng từ 350-400 tù 
   nhân. Các tù nhân không hay biết mình đang bị đem đến chỗ chết, thậm 
   chí nhiều người còn vui mừng ngỡ rằng sẽ được trả tự do. Ghi chép 
   của một tù nhân - Thiếu tá Solxki Adam (được chuyển đi từ trại 
   Kozelski ngày 7-4-1940) về những giây phút thương tâm cuối cùng đã 
   nói lên điều đó: 
   
   Ngày 20-4. 12 giờ, chúng 
   tôi đang ở phía Tây 
   Smolensk. Ngày 21-4. Chúng tôi bị đánh thức, được đưa 
   lên những chiếc xe ôtô và được mang đi đâu đó. Ngay từ buổi sáng, 
   mọi việc đã có vẻ bất thường (…). Chúng tôi được đưa tới một khu 
   rừng giống như khu nghỉ dưỡng mùa hè, bị lục soát một cách kỹ lưỡng, 
   bị tịch thu nhẫn cưới, thắt lưng, dao nhíp, đồng hồ - lúc đó đồng hồ 
   đang chỉ 6h30 phút sáng…[42].
   
   “Đồng 
   hồ dừng lại ở 6h30 phút sáng” – những “bản án” được thực hiện một 
   cách lạnh lùng. Các tù nhân ở Kharkov và 
   Kalinin bị bắn ngay trong nhà tù. Tại Katyn, tù nhân bị dẫn đến 
   trước những hố to đã đào sẵn và bị bắn vào đầu ở cự ly gần bằng 
   những khẩu súng lục, chủ yếu là súng Đức - "Walter" và "Browning” 
   (đó cũng là một trong những cơ sở để sau này Liên Xô đổ lỗi cho quân 
   đội Đức là thủ phạm). 
   
   Vụ xử bắn tù nhân kéo dài đến giữa tháng 
   5-1940 và diễn một cách suôi sẻ: Tại khu rừng gần làng Katyn cũng 
   như trong một số trại giam trên đất nước Liên Xô, chỉ trong vài tuần 
   đã có gần 22.000 tù nhân - 
   công dân Ba Lan bị giết chết theo lệnh của Ủy ban Nhân dân Nội vụ. 
   Sau khi “Chiến dịch giảm tải trại tù” kết thúc, “đã xử bắn 
   21.857 người; trong đó: 4.421 bị bắn tại Katyn (vùng 
   Smolensk), 3.820 người bị bắn tại 
   trại Starobelsk gần 
   Kharkov, 6.311 người bị bắn tại 
   trại 
   Ostashkov (vùng Kalinin), 
   7.305 người bị bắn chết trong các nhà tù phía Tây Ukraine và Tây
   Belorusia”[43].
   
   Vụ thảm sát không chỉ diễn ra ở Katyn, 
   nhưng thuật ngữ "Thảm sát Katyn" được gọi chung cho việc giết 
   hại các tù nhân Ba Lan (đa phần là 
   tầng lớp tinh hoa, sĩ quan từ cấp tá trở lên) 
   vì vụ nổ súng tại làng Katyn xảy ra trước nhất.
   Sau đó, việc sát hại 7.000 người 
   (trong số đó có 1.000 sĩ quan cao cấp Ba Lan) bị Liên Xô giam giữ 
   trong các nhà tù ở miền Tây Ukraina và 
   Belorusia cũng được gắn 
   với cái tên “Thảm sát Katyn”.
   
   4- Câu chuyện chưa kết 
   thúc
   Sau 
   rất nhiều nỗ lực và biến động chính trị, cuối cùng, sự thật về một 
   thảm kịch khủng khiếp trong lịch sử cũng đã dần phơi tỏ. Tại nước 
   Nga, năm 1993, tư liệu Hồ sơ 
   Katyn được đăng tải trên Tạp chí khoa học “Câu hỏi của 
   lịch sử” (Вопросы истории); đồng thời, 
   Nhà nước Nga tạo điều kiện cho các nhà khoa học nghiên cứu Hồ 
   sơ[44]. 
   Cũng từ thời điểm đó, các nhà khoa học Nga và Ba Lan nỗ lực điều 
   tra, làm rõ nhiều vấn đề xung quanh vụ 
   thảm sát Katyn. Tháng 8-1993, những 
   kết quả điều tra ban đầu được công bố trong công trình “Nước Nga 
   và Katyn” 
   (Nxb. Karta, Ủy ban Khoa học toàn Ba Lan tài trợ)[45]. 
   Năm 1995, các nhà khoa học Liên bang Nga và Ba Lan xuất bản ấn phẩm 
   “Katyn: Tư liệu tội ác”[46]. 
   Năm 1999, toàn bộ những tư liệu quan trọng tiếp tục được công bố 
   trong cuốn “Katyn: Những tù binh của 
   cuộc chiến không tuyên bố. Hồ sơ và tư liệu”[47].
   
   Những 
   năm 1990-2004, Viện Kiểm sát 
   quân sự tối cao Liên Xô (từ năm 1992 là Viện
   Kiểm sát quân sự tối cao Liên bang 
   Nga) thực hiện nhiệm vụ điều tra thảm họa 
   Katyn; trong quá trình đó, Viện Công tố đã tiến hành 18 cuộc 
   khảo sát, nghiên cứu hơn 1.000 đối tượng, khai quật 200 thi thể và 
   phỏng vấn hơn 9.000 nhân chứng[48]. 
   Kết quả điều tra được lưu giữ trong 183 
   tập hồ sơ, song chỉ có 116 tập được công bố đầy đủ. Ngày 11-3-2005, 
   Viện Kiểm sát Quân sự tối cao Liên bang Nga chính thức tuyên bố
   chấm dứt điều tra, xem vụ Katyn là tội phạm thông thường,
   “không đủ cơ sở để coi vụ thảm sát ở 
   Katyn là diệt chủng” vì tính chất của nó không nhằm vào sự phân biệt 
   đối xử với người dân Ba Lan và đã quá thời hạn hiệu lực hồi 
   tố[49]. 
   Ngày 10-4-2010, nguyên Tổng thống Ba Lan Lech Kaczynski cùng phu 
   nhân và 94 quan chức đã tử nạn bởi một tai nạn máy bay ở 
   Smolensk, khi thực hiện chuyến công du dự lễ tưởng niệm Katyn. 
   Trong một động thái chia sẻ nỗi đau vì cái chết của Tổng thống Ba 
   Lan và Đoàn quan chức tháp tùng, ngày 8-5-2010, Tổng thống Nga 
   D.Medvedev trao cho người đồng cấp Ba Lan B. Komorowski 67 tập tài 
   liệu mật về vụ thảm sát Katyn, hứa sẽ trao tiếp tài liệu và những 
   thông tin liên quan. Năm 2010, trong Lễ kỷ niệm 65 năm chiến 
   thắng phát-xít, Tổng thống Nga D.Medvedev đã nhắc đến “tội ác 
   Katyn”, gọi đây là một “trang đen tối của lịch sử".
   Ngày 
   25-11-2010, với tỉ lệ ủng hộ là 342/450, Quốc hội Liên bang Nga bỏ 
   phiếu thừa nhận vụ thảm sát hàng chục ngàn công dân và sĩ quan Ba 
   Lan là do lực lượng công an Liên Xô thi hành[50]. 
   Quyết định của Quốc hội Nga được người dân Ba Lan đánh giá cao, coi 
   “Nghị quyết lịch sử" này không chỉ quan trọng đối với người Ba Lan, 
   mà còn đối với quan hệ Nga - Ba Lan, cũng như với bản thân người 
   Nga.
   Ngày 
   21-10-2013, tương tự như trong phán quyết cấp sơ thẩm năm 2012,
   trong một phán quyết chung cuộc về vụ thảm sát Katyn, Tòa 
   án Nhân quyền châu Âu (trụ sở tại Strasbourg) tuyên bố không 
   có thẩm quyền phán quyết về các trường hợp giết người “xảy ra 58 năm 
   trước khi Công ước Châu Âu về nhân quyền có hiệu lực tại Nga từ năm 
   1998”[51]. 
   Tuy nhiên, 17 thẩm phán của thuộc Đoàn thẩm phán tối cao Tòa 
   án Nhân quyền châu Âu đã phê phán Nga về tội “thiếu tường trình tích 
   cực” đối với số phận các tù nhân Ba Lan tại Katyn bị Liên Xô 
   tử hình vào năm 1940; nhất trí lên án: “Nga thiếu sót trong 
   nghĩa vụ hợp tác với Toà án Châu Âu, miễn cưỡng trong việc cung cấp 
   đầy đủ các chứng cứ cho việc xem xét vụ án”[52].
   
   
   Nhìn 
   chung, người dân Ba Lan không hài lòng và không thỏa mãn với những 
   tuyên bố của Viện
   Kiểm sát quân sự tối cao Liên Xô 
   cũng như Tòa án Nhân quyền châu Âu. Phía Ba Lan trước sau nhất quán 
   quan điểm: Vì tính chất giết người hàng loạt, những cuộc thảm sát 
   này thích hợp để quy vào tội ác chống nhân loại; mong muốn nước Nga 
   “có những cử chỉ thiện chí và chân thành hơn”, chính thức xin lỗi và 
   bồi thường cho gia đình các nạn nhân. 
   Có 
   thể thấy rằng, Nhà nước Liên bang Nga chỉ dừng lại ở mức độ công 
   nhận vụ thảm sát Katyn là lỗi của “chế độ toàn trị Stalin”, không 
   muốn đi xa hơn điều đó. Mặc dù thừa nhận “đây là tội ác không có lời 
   bào chữa”, song Nhà nước Liên bang Nga tìm cách lý giải làm nhẹ bớt 
   vấn đề[53], 
   chỉ dừng lại ở những việc như giải mật hồ sơ, công bố sự thật, thừa 
   nhận là tội ác của “chế độ toàn trị Stalin”…, coi đó như là những 
   hành động mang tính thực tế (đã thừa nhận).  
   Vẫn 
   chưa có một kết cục cuối cùng cho “vấn đề Katyn” – một kết cục vừa 
   có thể xoa dịu nỗi đau, chữa lành nỗi ám ảnh của thân nhân những 
   người bị thảm sát, lại vừa có thể thỏa mãn được nước Nga hiện đại 
   đang có những tranh luận khác nhau về quá khứ, nhằm cổ vũ cho những 
   giá trị trường tồn, khơi dạy lòng tự hào dân tộc, phục vụ mục tiêu 
   chấn hưng đất nước, khôi phục vị thế cường quốc[54].
   Có 
   lẽ, không có cách nào khác hơn để chia tay với nỗi đau bằng cách 
   dũng cảm nhìn nhận/thừa nhận nó. Và trên hết, 
   không thể đầu cơ lịch sử! 
   Với quá khứ, với lịch sử, luôn cần sự thẳng thắn, công tâm và
   trung thực.
     
     
     
     
     [1]
      
     Катынь. 
     Март 1940 г. - сентябрь 2000 г. Расстрел. Судьбы живых. Эхо 
     Катыни. Документы. М., 2001, С. 387.
     
     
     
     
     [2] 
     Катынь. Март 1940 г. - сентябрь 2000 г. 
     Указ. Соч, С.388.
     
     
     
     
     [3]
     Развитие польско-советских отношений после событий под 
     Катынью, Библиотека иследователям Катынского дела,
     
     
     РФ.
     
     
     
     
     [4] 
     Бабий Яр под Катынью? // Военно-исторический журнал. 
     1990. № 12. С. 35.
     
     
     
     
     [5]
     Катынь, Библиотека иследователям Катынского дела,
     
     
     
     РФ.
     
     
     
     
     [6] 
     Е. Прудникова, И. Чигирин:  Катынь. 
     Ложь, ставшая историей,Библиотека 
     иследователям Катынского дела, 
     
     РФ.
     
     
     
     
     [7] 
     Катынь. Март 1940 г. - сентябрь 2000 г. 
     Указ. Соч, С. 455.
     
     
     
     
     [8] 
     Катынь. Март 1940 г. - сентябрь 2000 г. 
     Указ. Соч, С. 455-456.
     
     
     
     
     [9]
     
     Расследование Катынской трагедии немецкой 
     комиссией, Библиотека 
     иследователям Катынского дела, 
     
     РФ.
     
     
     
     
     [10]
      
     Выписка из протокола 3-огo заседания Политбюро ЦК КПСС от 5 апреля 1976 год, 
     АПРФ по катынскому делу
     
     
     
     
     [11] 
     Người đứng đầu KGB từ tháng 
     12-1958 đến tháng 11-1961.
     
     
     
     
     [12] 
     Pукописная записка председателя КГБ при СМ СССР А.Н. 
     Шелепина от 3 марта 1959 г. № 632-Ш, Закрытый пакет 
     документов о катынском деле, РГАСПИ, Ф. 17, оп. 166, 
     д.621,Л.139.
     
     
     
     
     [13] 
     Pукописная записка председателя КГБ при СМ СССР А.Н. 
     Шелепина от 3 марта 1959 г,
     Указ. Соч. Л.139
     
     
     
     
     [14]
     
     Troika NKVD 
     là một Ủy ban đặc biệt gồm ba người:
     
     
     Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đảng; Chủ tịch 
     NKVD, Công tố viên trưởng Viện kiểm sát liên bang Tối cao. 
     Ủy ban này có trong tay siêu quyền lực, xử lý những vấn đề 
     về an ninh không cần qua tiến trình xét xử theo luật pháp.
     
     
     
     
     [15] 
     Pукописная записка председателя КГБ при СМ СССР А.Н. 
     Шелепина от 3 марта 1959 г,
     Указ. Соч. Л.139
     
     
     
     
     [16] 
     Выписка из протокола 3-огo заседания Политбюро ЦК КПСС от 5 
     апреля 1976 год, 
     
     Указ. Соч.
     
     
     
     
     [17] 
     Медведев В.А. Распад: Как он назревал в “мировой системе 
     социализма”. М., 1994. С. 96.
     
     
     
     
     [18]И. 
     Яжборовская, А. Яблоков, B. Парсаданова: Катынский 
     синдром в советско-польских и российско-польских отношениях, 
     Указ. Соч.
     
     
     
     [19] 
     Декларация о советско-польском сотрудничестве в области 
     идеологии, науки и культуры. М., 1987. С.9. 
     
    
     
     
     
     [20] 
     Декларация о советско-польском сотрудничестве в области 
     идеологии, науки и культуры, 
     Указ. Соч. С. 10.
     
     
     
     
     [21]
     
     
     Признание советскими властями ответственности 
     за Катынскую трагедию,
     
     Библиотека иследователям Катынского дела,
      
     
     РФ.
     
     
     
     
     [22] 
     Признание советскими властями ответственности за Катынскую 
     трагедию, Указ. Соч.
     
     
     
     
     [23] 
     Tuy thừa nhận trách nhiệm của Liên Xô trong vụ thảm sát
     Katyn, nhưng trong Sắc lệnh 
     “Về  
     kết quả của
     chuyến thăm Liên 
     Xô  của 
     
     Bộ trưởng Ngoại giao nước
     Cộng hòa Ba Lan  
     Skubiszewski” 
     (3-11-1990), tại Điều 9, 
     Gorbachev chỉ thị Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô dưới sự hỗ 
     trợ của Tòa án Tối cao, Bộ Quốc phòng và các cơ quan hữu 
     quan khác, nghiên cứu, làm rõ “những sự kiện lịch sử trong 
     quan hệ song phương Liên Xô – Ba Lan, mà phía Ba Lan có gây 
     tổn hại cho Liên Xô. Kết quả đó, trong những trường hợp cần 
     thiết, có thể đem ra trong các cuộc hội đàm về những “vết 
     đen” trong quan hệ hai nước” (Nguồn: Расположение  
     Президентa Союза Советских Социалистических Республик, 3 
     ноября 1990 г, №
     РП-979, АПРФ по катынскому 
     делу).
     
     
     
     
     [24] 
     Này 20-7-1991, Yeltsin ban bố Sắc lệnh phi đảng hóa và tuyên 
     bố nghiêm cấm hoạt động của các chính đảng trong cơ quan nhà 
     nước các cấp, cũng như các đoàn thể quần chúng và doanh 
     nghiệp cơ sở, chĩa mũi dùi vào Đảng Cộng sản Liên Xô, dẫn 
     đến sự sụp đổ của Đảng CS Liên Xô và sự giải thế của Liên 
     Xô.
     
     
     
     
     [25] 
     Центр хранения современной документации, Ф. 89. Оп. 14. 
     Д. 1-20.
     
     
     
     
     [26] 
     Секреты пакета № 1. С. 38.
     
     
     
     
     [27] 
     И. Яжборовская, А. Яблоков, B. Парсаданова: Катынский 
     синдром в советско-польских и российско-польских отношениях, 
     Указ. Соч.
     
     
     
     
     [28] 
     Главная военная прокуратура, Уголовное дело № 159. Т. 
     115. Л. 4-29, 45-78.
     
     
     
     
     [29] 
     Phụ trách bộ máy an ninh quốc gia và cảnh sát mật Liên Xô 
     những năm
     1946–1953.
     
     
     
     
     [30] 
     No 794/Б, đóng dấu của
     Ủy ban Nhân dân Nội vụ Liên Xô – 
     NKVD (tiếng Nga:НКВД).
     
     
     
     
     [31]Записка 
     НКВД СССР № 794/B, о польских военнопленных, 
     подписанная Л. П. Берия, Закрытый пакет документов о 
     катынском деле, РГАСПИ, Ф. 17, оп. 166, д.621, Лист 
     130-133.
     
     
     
     
     [32]Записка 
     НКВД СССР № 794/B, о польских военнопленных, подписанная 
     Л. П. Берия,
     Указ. Соч, Л. 130..
     
    
     
     
     
     
     [33]
     L.Beria đưa ra con số thống kê cụ 
     thể về thành phần14.700 tù binh người Ba Lan: Cấp 
     tướng, đại tá và trung tá: 295; thiếu tá, đại úy: 2.080; 
     thượng úy, trung úy, thiếu úy: 6049; cảnh sát, hiến binh, 
     lính biên phòng: 1.030; cảnh vệ, dân binh, điệp viên, cai 
     ngục: 5.138; chức sắc, chủ đất, linh mục, người nhập cư: 144 
     (Nguồn: 
     Записка 
     Л.Берии И. В. Сталину (3-3-1940), № 794/Б, АПРФ, ф. 3. 
     Закрытый пакет № 1, 
     
     Л.131).
     
     
     
     
     [34]
     
     L.Beria thống kê cụ 
     thể về thành phần 
     18.632 
     tù binh như sau: Sĩ quan cũ:  
     
     1.207; 
     cảnh sát, trinh sát, hiến binh:  
     
     5.141; 
     điệp viên, biệt kích:  
     
     347; 
     chủ đất, chủ xưởng, quan chức:  
     
     465; 
     thành viên các tổ chức nổi dậy và các thành phần khác:
     
     
     
     5.345; 
     người tị nạn:  
     
     6.127 
     (Nguồn: 
     Записка 
     Л.Берии И. В. Сталину (3-3-1940), № 794/Б, АПРФ, ф. 3. 
     Закрытый пакет № 1, 
     
     Указ. Соч, 
     Л. 131).
     
     
     
     
     [35] 
     Записка Л.Берии И. В. Сталину (3-3-1940), № 794/Б, АПРФ, 
     ф. 3. Закрытый пакет № 1,
     Указ. Соч. Л.133.
     
     
     
     
     [36] 
     Записка Л.Берии И. В. Сталину (3-3-1940), № 794/Б, АПРФ, 
     ф. 3. Закрытый пакет № 1,
     Указ. Соч. Л..132.
     
     
     
     
     [37] 
     Записка Л.Берии И. В. Сталину (3-3-1940), № 794/Б, АПРФ, 
     ф. 3. Закрытый пакет № 1,
     Указ. Соч. Л..133.
     
     
     
     
     [38] 
     Trong cuốn sách: “Stalin: The Court of the Red Tsar" 
     (Nxb. Vintage, 2005), tác giả 
     Simon Sebag Montefiore có chú giải: Con 
     trai của Mikoyan là Stepan nói rằng, chữ ký của cha mình 
     trên tờ Quyết định này là "gánh nặng nặng nhất đối 
     với gia đình của chúng tôi” (p.94).
     
     
     
     
     [39] 
     Выписка из протокола № 13 пункт 144 заседания Политбюро ЦК 
     ВКП(б), № П13/144 , 5 марта 1940 (В книге “Катынь:Пленники 
     необъявленной войны”, Под редакцией Р.Г.Пихои, А.Гейштора, 
     М. 1999), C.606.
     
     
     
     
     [40] 
     Выписка из протокола №13 заседания Политбюро ЦК ВКП(б) 
     “Особая папка” от 5 марта 1940 г, No.13/144, 
     Указ. Соч, 
     Л.134.
     
     
     
     
     [41] 
     Còn được dịch là: “Chiến dịch sơ tán nhà tù và trại 
     giam”.
     
     
     
     
     [42] 
     Катынский расстрел — официальные сведения и версии, 
     Библиотека иследователям Катынского дела, 
     РФ.
     
     
     
     
     [43] 
     Pукописная записка председателя КГБ при СМ СССР А.Н. 
     Шелепина от 3 марта 1959 г. №632-Ш, Закрытый пакет 
     документов о катынском деле, РГАСПИ, Ф. 17, оп. 166, 
     д.621,Л.138.
     
     
     
     
     [44] 
     Секретные документы из особых папок / Подготовка 
     публикации и вступительная статья к ней М.И. Семиряги // 
     Вопросы истории. 1993. № 1. С.7-22
     
     
     
     
     [45] 
     Orzeczenie Komisji ekspertów. Moskwa, 2 sierpnia 1993 // 
     Rosja a Katyn. W-wa, 1994.
     
     
     
     
     [46] 
     Katyn. Dokumenty zbrodni. T. 1. Jeńcy nie wypowiedzianej 
     wojny. Sierpień 1939 — marzec 1940. W-wa, 1995; T. 2. 
     Zagłada. Marzec-czerwiec 1940. W-wa, 1998; Катынь: Пленники 
     необъявленной войны.
     
     
     
     
     [47]Катынь. 
     Пленники необъявленной войны.Документы и материалы, 
     Под редакцией Р.Г.Пихои, А.Гейштора, М. 1999.
     
     
     
     
     [48]
     
     
     Расследование Катынского убийства Главной 
     военной прокуратурой СССР,
     
     Библиотека иследователям Катынского дела,
      
     
     РФ.
     
     
     
     
     [49]
     Trong việc 
     đánh giá sự kiện Katyn 
     năm 1940, phía Nga cho rằng phải xuất phát từ Bộ Luật Hình 
     sự Liên Xô năm 1926, theo đó, thời hạn hiệu lực của những 
     hành vi phạm tội như ở 
     Katyn 
     được xác định là 10 năm, đó là chưa kể đến chuyện các thủ 
     phạm của vụ thảm sát đều đã qua đời (Nguồn: 
     Nhân tai nạn của vợ chồng 
     tổng thống Ba Lan: công lý trong vụ thảm sát Katyn 
     đã được tái lập? 
     Nhịp Cầu Thế Giới Online, 14-4-2010)
     
     
     
     
     [50] 
     Mỹ Loan: Nga thừa nhận Stalin ra lệnh thảm sát Katyn, 
     Tuổi trẻ Online, 28-11-2010.
     
     
     
     
     [51] 
     Европейский суд по правам человека поставил точку в 
     "катынском деле": Россия оправдана,
     Politikus.ru, 21-10-2013.
     
     
     
     
     [52]
     Европейский суд по правам человека поставил точку в 
     "катынском деле": Россия оправдана,
     Указ. Соч.
     
     
     
     
     [53] 
     Phía Nga cho rằng, sở dĩ Stalin đưa ra quyết định thực hiện 
     thảm sát Katyn là nhằm trả thù cho thất bại của Hồng quân 
     Liên Xô năm 1920 (trong chiến tranh Ba Lan-Liên Xô, đã có 
     32.000 Hồng quân Liên Xô bị phía Ba Lan giết hại). Nước Nga 
     cũng đưa ra quan điểm: Nhìn lại thấu đáo lịch sử, không phải 
     để gánh nặng lịch sử đè lên quan hệ Nga - Ba Lan, cũng không 
     phải đổ lỗi cho nhân dân Nga, mà loại bỏ những thành kiến, 
     thiếu tin cậy đã từng tồn tại trong quan hệ Nga- Ba Lan do 
     vấn đề thảm sát Katyn và để đóng lại trang sử cũ, lật trang 
     sử mới, viết những điều tốt đẹp (Nguồn: Максим Жapoв, 
     Судьба Катыни, 
     Жyp. 
     Валовой внутренний продукт (ВВП), № 5 
     (55), 2010).
     
     
     
     
     [54]Một 
     nước Nga trên con đường phục hưng, khôi phục vị trí cường 
     quốc đang rất cần sự thống nhất, những giá trị tinh thần 
     truyền thống, lòng tự hào dân tộc…; do vậy; rất khó vượt qua 
     ngưỡng để gọi chính xác tên sự vật. Ở nước Nga hiện nay, dư 
     luận xã hội cũng cho rằng, lại một lần nữa, Nhà nước Liên 
     bang Nga đang sử dụng lịch sử và các khoa học xã hội vào 
     cuộc chiến tư tưởng (chứ không phải cuộc chiến ý thức hệ như 
     trước đây).
Video yêu thích  
 http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam 
 
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khaoch xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khaoch xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
