
 
ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM. Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn có loạt ba bài viết gần đây về đại học đẳng cấp quốc tế:  "Mơ đẳng cấp quốc tế nhưng hành động ‘khác người’?". "Giáo sư đem lại danh tiếng cho trường đại học? "  "Bao giờ Việt Nam có đại học đẳng cấp quốc tế?"  Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn bình luận: "Vấn đề xoay quanh vòng tròn luẩn quẩn: 
thiếu người tài dẫn đến nghiên cứu kém chất lượng, nghiên cứu kém chất 
lượng dẫn đến đại học không có tiếng tốt, đại học không có tiếng tốt dẫn đến khó thu hút người tài. Bốn yếu tố trên tương tác với nhau. Có 
giáo sư giỏi thì mới có nghiên cứu khoa học có phẩm chất tốt; nghiên cứu
 sẽ tạo ra “ngôi sao”; ngôi sao sẽ đào tạo sinh viên giỏi; sinh viên 
giỏi mang tiếng thơm cho trường. Bản thân giáo sư giỏi qua công bố quốc 
tế cũng tạo danh cho trường. Tôi nghĩ tất cả đều bắt đầu từ con người và
 nghiên cứu khoa học. Các trường đại học Việt Nam  thiếu cả hai thì rất khó trở
 thành “đẳng cấp quốc tế” trong tương lai gần. "Tài liệu dưới đây là sự chép lại hệ thống ba bài viết này để đọc lại và suy ngẫm. 
Mơ đẳng cấp quốc tế nhưng hành động ‘khác người’?
GS Nguyễn Văn Tuấn
19-08-2014 
Rơi rớt tư duy bao cấp
Có các trường đại học đẳng cấp
 quốc tế, nằm trong bảng xếp hạng Top 500, 200 khu vực và thế giới là 
mong muốn, mục tiêu của Chính phủ, cũng như là đích phấn đấu của nhiều 
lãnh đạo các đại học VN. Thế nhưng, trong thực tế đây đó vẫn còn những 
tư duy lỗi thời về nghiên cứu khoa học (NCKH), và có thể nói là làm cản 
trở sự hội nhập của đại học VN. 
NCKH là hoạt động không thể thiếu
 của một đại học nếu muốn vươn đến đẳng cấp thế giới. Một thành quả quan
 trọng của NCKH là công bố quốc tế, có thể là tại các hội nghị khoa học 
uy tín hoặc trên các tập san khoa học có bình duyệt. Do đó, trường đại 
học tại các nước tiên tiến thường có chính sách khuyến khích nghiên cứu 
sinh, giảng viên, nhà khoa học nâng cao sự hiện diện trong các hội nghị 
và trên các tập san qua các bài giảng và bài báo khoa học. 
Thế 
nhưng ở VN, vẫn còn những đại học mà lãnh đạo chưa khuyến khích hoạt 
động này. Chẳng hạn, đối với nhà khoa học, việc tham dự và trình bày kết
 quả trong các hội nghị quốc tế hàng năm là rất quan trọng. Vậy mà có 
đại học lại ra qui định giảng viên không được đi dự hội nghị nước ngoài 
quá 2 lần/ năm, không có ngoại lệ!  
Thoạt nghe, qui định này cũng
 có lí, nhằm ngăn ngừa những người lợi dụng hội nghị để… đi chơi. Nhưng 
đi dự hội nghị khoa học cũng có vài tư cách khác nhau: người tham dự, 
không có trình bày báo cáo; người đi dự có báo cáo; và quan trọng hơn cả
 là người được mời đến giảng. 
Người được mời giảng được xem là 
một người có đóng góp quan trọng, nên ban tổ chức thường lo tiền vé máy 
bay cũng như ăn ở. Sự có mặt của họ trong các hội nghị, trên bục giảng 
là vinh dự cho trường đại học họ đại diện, là một cách quảng bá tuyệt 
vời cho tên tuổi trường. Tuy nhiên, với qui định hạn chế số lần đi dự 
hội nghị nước ngoài, vinh dự này cũng có thể “tan thành mây khói”. 
Ở
 các đại học phương Tây, có những giáo sư uy tín đi nước ngoài giảng 
thường xuyên như… “đi chợ”. Trường không cần chi trả cho họ đồng nào mà 
còn được lợi về danh tiếng. Cứ mỗi cuối năm, trường đại học thường hay 
“khoe” trong báo cáo về số giảng viên và nhà khoa học của trường được 
mời đi báo cáo ở nước ngoài.
Còn nếu nói cần ngăn ngừa các trường 
hợp “đi chơi” thì cũng có nhiều cách khác. Chẳng hạn, ở Viện Garvan của 
tôi, người ta không hạn chế số lần đi dự hội nghị, miễn là phải có báo 
cáo được chấp nhận cho trình bày, và phải báo cáo thời gian dự hội nghị,
 thời gian giải trí để họ trả lương thích hợp.
Nói về mời giảng, 
tôi liên tưởng đến câu chuyện vị lãnh đạo của một đại học VN phàn nàn 
tại sao ban tổ chức hội nghị lại gửi giấy mời trực tiếp cho giáo sư của 
trường. Theo ông, họ phải gửi cho hiệu trưởng, và ban giám hiệu sẽ phân 
công người đi dự hay đi giảng bài! Có lẽ đây là một tư duy độc đoán còn 
sót lại thời bao cấp, cái gì cũng phải qua lãnh đạo và nó cho thấy ông 
ấy không am hiểu “luật chơi” của khoa học quốc tế. 
Chuyện nhỏ mà không nhỏ
Một
 vấn đề khác là công bố nghiên cứu trên các tập san quốc tế có khi phải 
trả tiền ấn phí, thường khoảng 400 - 1000 USD. Nhiều trường đại học ở VN
 ý thức được tầm quan trọng của hoạt động này, nên rất khuyến khích 
giảng viên, nhà khoa học và sẵn sàng trả tiền ấn phí.  
Tuy nhiên, 
vẫn có những đại học lớn, thậm chí tầm quốc gia chẳng những chưa xem 
trọng công bố quốc tế, mà nếu giảng viên có công bố thì cũng không trả 
tiền ấn phí. Lãnh đạo các đại học này suy nghĩ rằng, việc công bố là đem
 lại lợi ích cho cá nhân của giảng viên, chẳng liên quan gì đến trường! 
Theo
 tôi, đó là một tư duy thiển cận. Công bố quốc tế là một cách đóng góp 
để nâng cao sự hiện diện của khoa học VN trên trường quốc tế. Ở nước 
ngoài, khi giảng viên có bài trên các tập san uy tín, người ta tổ chức 
ăn mừng và thưởng cá nhân tác giả đến hàng nghìn USD. Ngay như tại TQ, 
các đại học cũng có ngân sách khuyến khích công bố quốc tế bằng cách 
thưởng tiền tuỳ theo hệ số ảnh hưởng của tạp chí. 
Một điểm nữa, ở
 các đại học phương Tây, người ta khuyến khích (có nhiều nơi qui định) 
nghiên cứu sinh công bố bài báo khoa học trên các tập san quốc tế trước 
khi bảo vệ luận án; hoặc nếu không kịp thì cũng công bố trong các hội 
nghị chuyên ngành có uy tín. Nhưng ở VN, có đại học lại ra qui định 
nghiên cứu sinh không được công bố bài báo khoa học trước khi bảo vệ 
luận án! Đây là một qui định “ngược”, ngay cả đối với phần lớn các đại 
học VN.
 
Còn nhiều qui định và những “câu chuyện nho nhỏ” như thế 
trong thực tế. Bề ngoài, chúng có vẻ rất nhỏ nhặt, nhưng thực tế đó là 
sản phẩm của những tư duy lỗi thời, bao cấp, độc quyền và làm cản trở sự
 hội nhập của đại học VN trên trường quốc tế. 
Quan điểm và chính 
sách chung của Chính phủ thì khá rõ ràng, nhưng khi xuống đến đại học 
thì mỗi nơi lại hiểu và làm mỗi khác, có lẽ tuỳ thuộc vào cá nhân lãnh 
đạo. 
Nếu lãnh đạo là nhà khoa học từng làm nghiên cứu, từng biết cái 
gian nan của công bố quốc tế cũng như ý nghĩa của nó, thì hẳn rất thấm 
chủ trương của Chính phủ và tạo điều kiện cho giảng viên công bố quốc 
tế. Nhưng nếu lãnh đạo đại học chưa quen với qui trình đó thì cách hiểu 
về “đẳng cấp quốc tế” có thể chưa thấu đáo và dẫn đến những qui định khó
 hiểu. 
 
Có lẽ đã đến lúc phải “thống nhất tư tưởng” về NCKH và tầm
 quan trọng của nó trong việc nâng cao uy danh của đại học và danh dự 
VN. Trong bảng xếp hạng đại học của nhóm QS, nghiên cứu khoa học chiếm 
60% điểm xếp hạng. Sự thật đơn giản này cho thấy nếu đại học VN muốn có 
tên trong bảng xếp hạng “Top 500” hay “Top 200” thì phải nâng cao NCKH 
và chất lượng công bố quốc tế. Ngay cả những đại học chưa có mộng có tên
 trong QS (hay bất cứ bảng xếp hạng nào) vẫn phải xem công bố quốc tế là
 quan trọng, vì nghĩa vụ đóng góp vào khoa học VN. 
NCKH bắt đầu 
từ con người, cụ thể là giảng viên và nhà khoa học. Do đó cần phải 
khuyến khích (bằng tiền thưởng hay các hình thức sự nghiệp khác) và ghi 
nhận xứng đáng các nhà khoa học có công trình công bố quốc tế.  
 
Giáo sư đem lại danh tiếng cho trường đại học?
 
GS Nguyễn Văn Tuấn
 
19-08-2014
 
Có người cho rằng không có giáo X kia 
thì ai biết đến đại học Y. Nói cách khác, họ cho rằng sự danh tiếng [nếu
 có] của đại học Y là nhờ vào danh tiếng [nếu có] của giáo sư X. Tất 
nhiên, chúng ta chỉ nói đại học ở VN (vì đại học nổi tiếng ở nước ngoài 
thì là một câu chuyện khác). 
Tôi nghĩ quan điểm “nhờ X thì Y mới nổi 
tiếng” là một sai lầm, nếu không muốn nói là ảo tưởng.
Chúng ta phải hiểu “nổi tiếng” ở đây là 
có tiếng tốt, chứ không phải tiếng xấu. Tiếng tốt rất khó định lượng cho
 chính xác. Trường thì có tiếng về ngành kinh tế, nhưng kém với khoa 
học; trường thì vang danh về y khoa; lại có trường nổi tiếng trong nhiều
 lĩnh vực. Có trường sinh viên ra tìm việc làm dễ và nhanh, có trường 
tốt về cơ sở vật chất, lại có trường giỏi về nghiên cứu khoa học. Làm 
sao cân đo đong đếm các khía cạnh đó là một vấn đề nan giải. Người ta 
thường dựa vào các bảng xếp hạng đại học trên thế giới để đánh giá cái 
gọi là “nổi tiếng”. Có tên trong các bảng xếp hạng “Top 500” có thể xem 
là nổi tiếng. Chắc chắn không chính xác 100%, nhưng đại khái các bảng 
xếp hạng cũng phản ảnh khá đúng với cảm nhận của công chúng. Ví dụ như 
nói Mahidol University, ai cũng biết là ở Thái Lan và nổi tiếng; nói đến
 Stanford, ai cũng biết trường này ở Mĩ và nổi tiếng. Bảng xếp hạng do 
đó có thể xem là một dấu ấn gián tiếp (surrogate marker) của nổi tiếng.
Không có đại học nào của VN là có tiếng 
trên trường quốc tế. Thật vậy, cho đến nay chẳng có bất cứ một đại học 
nào của VN nằm trong bảng xếp hạng danh tiếng của QS, THE, AWRU. Điều 
này dễ hiểu, bởi vì các đại học VN còn rất lu mờ trong nghiên cứu khoa 
học. Chẳng ai biết và cũng chẳng ai quan tâm đến đại học VN vì họ chẳng 
có đóng góp gì đáng chú ý cho khoa học và cho cộng đồng quốc tế. Ngay cả
 các đại học lớn trong vùng cũng chẳng xem các đại học VN ra gì, vì 
khoảng cách về nghiên cứu giữa họ và các đại học hàng đầu ở VN quá xa và
 càng xa theo thời gian.
VN cũng chưa có một giáo sư hay một nhà 
khoa học nào đứng vào hàng các nhà khoa học “eminent” (lừng danh) trên 
thế giới. Dĩ nhiên, VN có vài nhà khoa học có tiếng trên thế giới trong 
chuyên ngành của họ, nhưng ngay cả trong chuyên ngành, cái “có tiếng” đó
 cũng chỉ là hạng trung bình hay trên trung bình một chút. Theo tôi 
biết, VN chưa có một nhà khoa học được mời diễn thuyết trong phiên họp 
khoáng đại của các hội nghị số 1 trong chuyên ngành. Điều này có lẽ 
không khó hiểu, vì VN cũng chỉ mới hội nhập quốc tế trong thời gian gần 
đây, và nghiên cứu khoa học cũng chỉ mới được quan tâm khi có người chỉ 
ra sự tụt hậu của VN trên trường quốc tế.
Sự nổi tiếng của đại học VN, do đó, 
không phụ thuộc vào giáo sư ở VN. Nói đúng ra, như nói trên không có một
 đại học VN nào nổi tiếng trên thế giới, và giáo sư cũng chưa nổi tiếng 
trên thế giới, thì tích số của hai yếu tố phải là số không.
Ở nước ngoài, có một số giáo sư Việt 
kiều nổi tiếng thật sự trong chuyên ngành của họ, nổi tiếng theo tiêu 
chí mà tôi mới đề cập ở trên. Nhưng tôi nói “một số”, chứ không nhiều 
như báo chí VN hay ảo tưởng. Bên cạnh một số giáo sư nổi tiếng đó, còn 
có nhiều giáo sư khác tuy không nổi tiếng nhưng họ có khả năng PR rất 
tốt trên báo chí VN và tự dưng họ trở thành nổi tiếng. Họ cũng là giáo 
sư ở nước ngoài, có thể từ các trường đại học danh tiếng nhưng phần lớn 
là xuất phát từ các trường làng nhàng. Họ có ý nguyện giúp VN, và khi về
 VN so với đồng nghiệp trong nước họ thấy mình cao hẳn lên. Từ đó họ ảo 
tưởng rằng mình là số 1 trên thế giới! Số này không nhiều, nhưng báo chí
 tung ca nhiều quá nên công chúng tưởng là nhiều.
Các trường đại học VN rất muốn nâng cao 
“thương hiệu” của họ trên trường quốc tế, và cũng là cách góp phần đưa 
tên tuổi VN trong trường khoa học. Do đó, họ rất cần nghiên cứu khoa 
học, lĩnh vực mà họ yếu nhất. Từ đó, họ cần sự giúp đỡ và hợp tác của 
các giáo sư nước ngoài, kể cả giáo sư Việt kiều. Một số ít giáo sư Việt 
kiều có tâm về hẳn VN để làm việc, và họ thường âm thầm. Nhưng số nhiều 
giáo sư Việt kiều thì chỉ như “đi mây về gió”, lâu lâu nói chuyện trong 
seminar, ghé thăm như “cưỡi ngựa xem hoa” chứ chẳng giúp gì nhiều. Do 
đó, có trường theo mô hình “nhóm nghiên cứu” (research group) để giúp 
các giáo sư Việt kiều có lab và có cơ sở để hợp tác lâu dài cho dù là ở 
nước ngoài.
Thế giáo sư Việt kiều có làm cho đại học
 VN nổi tiếng? Tôi nghĩ câu trả lời là KHÔNG. Một cây làm chẳng nên non.
 Cho dù một trường đại học có thể thu hút giáo sư Việt kiều nổi tiếng 
lừng danh hay nổi tiếng, thì sự hiện diện của giáo sư đó vẫn không thể 
giúp các đại học VN nổi tiếng được. Trường có tiếng về một lĩnh vực vẫn 
chưa thể nói là nổi tiếng được. Nổi tiếng đòi hỏi sự đồng bộ của nhiều 
lĩnh vực.
Nói đến nổi tiếng theo cái nhìn của công
 chúng trong nước chắc người ta nghĩ đến ĐHQGHN và ĐHQGHCM. Nhưng nếu 
hỏi họ 2 đại học đó nổi tiếng về cái gì, thì có thể phần lớn chẳng ai 
trả lời được. Không trả lời được là vì cả hai trường chẳng có công trình
 khoa học gì để gọi là “nổi bậc”. Có thể nói tất cả các đại học VN đều 
như thế, trường nào cũng như trường nào về tiếng tăm trong khoa học, 
chưa có trường nào có công trình gọi là “flagship” để công chúng nhận ra
 dễ dàng.
Do đó, tôi nghĩ sự có mặt của các giáo 
sư Việt kiều, cho dù là giáo sư danh tiếng, ở các đại học VN sẽ khó làm 
cho đại học nổi tiếng. Suy nghĩ kiểu “không có giáo sư X chắc chẳng ai 
biết đến trường Y” theo tôi là cực kì trẻ con đến bất ngờ. Tôi nghĩ các 
giáo sư Việt kiều chân chính không ai ảo tưởng rằng sự có mặt của họ sẽ 
làm đại học nổi tiếng; họ chỉ nghĩ góp một tay vào việc xây dựng thương 
hiệu cho đại học qua nghiên cứu khoa học và giảng dạy.
Bao giờ Việt Nam có đại học đẳng cấp quốc tế ?
GS Nguyễn Văn Tuấn
19-08-2014
Đại
 học Giao thông Thượng Hải của Tàu mới công bố danh sách “top 500” đại 
học trên thế giới (1). Không có một đại học VN nào trong danh sách. Câu 
hỏi mỗi năm lại đặt ra: bao giờ VN có đại học nằm trong top 500? Câu trả
 lời đơn giản là “còn rất lâu”. Phải cần một thời gian dài, một cuộc 
cách mạng trong suy nghĩ, những hành động tích cực về nghiên cứu khoa 
học, chúng ta mới có thể nghĩ đến đại học VN có tên trong các bảng xếp 
hạng top 500. Còn hiện tại, chỉ nên lo cải tổ và làm nghiên cứu khoa học
 cho thật tốt, chứ đừng đặt câu hỏi “bao giờ cho đến bao giờ”.
Báo Lao Động (2) có đặt câu hỏi theo 
kiểu khiêu khích Bộ trưởng (“Top 500 chờ “trận đánh lớn” của Bộ trưởng 
Luận”). Cần nhắc lại rằng cách đây vài tháng, ngài Bộ trưởng GDĐT tuyên 
bố rằng cải cách giáo dục là một “trận đánh lớn”. (Ông bộ trưởng này có 
vẻ thích quân sự, vì mới đây vài ngày ông có một phát ngôn mang mùi súng
 đạn). Nay nhà báo đem chữ đó ra làm cái “twist of the tongue” hỏi ngài 
bộ trưởng. Tuy nhiên, bài báo viết rằng do chất lượng đào tạo còn thấp 
nên các đại học VN chưa có trong top 500. Theo tôi quan điểm đó chưa hẳn
 đúng. Vấn đề “top 500” không phải là chất lượng đào tạo, mà là nghiên 
cứu khoa học.
Điều đáng chú ý năm nay là trong khối 
ASEAN nước mới nổi trong giáo dục đại học là Mã Lai Á có 2 đại học trong
 top 500: đó là Đại học Malaya và Đại học Khoa học Malaysia (USM). Hai 
đại học này trước đây còn kém hơn Mahidol và Chulalongkorn của Thái Lan,
 nhưng khoảng 5 năm trước họ đã vượt qua hai đại học danh tiếng của Thái
 Lan một cách ngoạn mục. Họ vượt qua Thái Lan không phải do đào tạo của 
họ có chất lượng hơn Thái Lan, mà là nghiên cứu khoa học của họ tốt hơn 2
 đại học hàng đầu của Thái Lan. Trong thời gian 2006-2010 ĐH Malaya công
 bố 6755 bài báo khoa học trên các tập san ISI, vượt qua Mahidol (6217).
 Nên nhớ trước 2006, ĐH Mahidol đứng hạng cao hơn ĐH Malaya.
Cả hai đại học của Mã Lai trong top 500 
đều còn “trẻ”. USM chỉ mới thành lập năm 1969, tức mới 45 năm. Ngay cả 
ĐH Malaya cũng chỉ thành lập từ năm 1949, tức 65 tuổi đời. Hai đại học 
này đều có “tuổi đời” trẻ hơn các đại học lâu đời của VN. ĐH Bách Khoa 
Sài Gòn thành lập năm 1957, ĐH Khoa học Sài Gòn và ĐH Khoa học Hà Nội 
thành lập từ 1949, tức cùng năm với ĐH Malaya. Nhưng khác với các đại 
học VN còn đang mơ mộng đẳng cấp, hai đại học Mã Lai đã vươn lên nhanh 
chóng trong vòng 20 năm qua và trở thành tên tuổi trên trường quốc tế. 
Điều này minh chứng cho phát biểu tôi từng nói trước đây là một số đại 
học chỉ cần 30-40 năm là trở thành đẳng cấp quốc tế. Tại sao VN vẫn chưa
 có đại học nào đạt tiêu chuẩn đó. Đó là một vấn đề cần phải suy nghĩ …
Theo tôi câu trả lời rất đơn giản là đại
 học VN chưa có thương hiệu trong trường khoa học quốc tế. Tôi có cảm 
giác ở nước ngoài giới khoa học chẳng ai biết đến hay quan tâm đến đại 
học VN. Tôi thỉnh thoảng nói về đại học VN làm cái này cái kia, họ chỉ 
ậm ừ, chẳng quan tâm. Nhiều lần như thế tôi đi đến kết luận rằng các đại
 học VN và nhà nghiên cứu VN chưa tạo được dấu ấn, chưa có thương hiệu 
khoa học. Mấy tuần trước, khi ngồi trong hội đồng cố vấn faculty của 
UTS, tôi thấy các thành viên tiêu ra gần nửa ngày để thảo luận phải làm 
gì để nâng cao thương hiệu trên trường quốc tế (UTS có trong bảng top 
500, hình như là hạng 300-400 gì đó, nhưng UTS chưa hài lòng với hạng 
đó). Chúng tôi đi đến kết luận thương hiệu khoa học của một đại học chủ 
yếu được xây dựng qua nghiên cứu khoa học, đội ngũ giảng viên và giáo 
sư, và sinh viên tốt nghiệp.
Xét trên cả ba khía cạnh tôi nghĩ các 
đại học VN khó có cơ may trở thành “đẳng cấp quốc tế”. Sau đây là một 
vài lí do giải thích tại sao:
Trước hết là về nghiên cứu khoa học. Ba 
đại học có nhiều công bố quốc tế nhất ở VN là [theo thứ tự] Đại học Quốc
 gia (ĐHQG) TPHCM, ĐHQG Hà Nội, và Đại học Bách khoa Hà Nội. Hai ĐHQG 
công bố nhiều vì nhân sự đông hơn các trường khác, chứ không có nghĩa là
 năng suất khoa học cao. Tuy nhiên, mỗi năm ĐHQG-HCM cũng chỉ công bố 
trên dưới 150 bài. Con số này còn rất khiêm tốn nếu so với các trường 
trong vùng. Chẳng hạn như Đại họcChulalongkorn, Mahidol, Malaya, mỗi 
năm công bố được từ 1700 đến 2500 bài. Còn so với ĐHQG Singapore thì con
 số công bố quốc tế của các đại học hàng đầu VN chẳng có ý nghĩa gì! 
(Năm 2009, ĐHQG Singapore công bố 4285 bài, tương đương với ĐH Sydney 
của Úc; cùng năm, ĐHQG Seoul công bố 5120 bài). Như vậy, hoạt động 
nghiên cứu khoa học của các đại học hàng đầu VN còn quá kém và quá lu mờ
 so với các đại học lớn trong vùng.
Nếu số công trình của VN tăng 20% mỗi 
năm và liên tục, thì cũng phải tốn 15 năm ĐHQG-HCM mới bằng ĐH Mahidol 
và 20 năm sau mới bằng ĐHQG Seoul năm 2009. Như vậy có một khoảng cách 
rất xa về nghiên cứu khoa học giữa các đại học hàng đầu VN và đại học 
đẳng cấp quốc tế.
Một điểm khác cũng đáng chú ý là phần 
lớn những bài báo khoa học từ VN là do hợp tác quốc tế. Hiện nay, khoảng
 70-80% các bài báo khoa học từ VN hoặc là kết quả của hợp tác quốc tế 
hoặc do nghiên cứu sinh đi học ở nước ngoài cùng nghiên cứu với thầy cô ở
 nước ngoài. Số bài báo “thuần Việt Nam” (tức tất cả tác giả và công 
trình thực hiện ở VN) còn rất ít. Điều này nói lên rằng khoa học VN đang
 trong thời kì hay có nguy cơ lệ thuộc.
Thứ hai là tầm ảnh hưởng của các đại học
 VN trong khoa học cũng rất thấp. Trong một phân tích trước đây, tôi có 
chỉ ra rằng gần 50% những bài báo công bố quốc tế của VN chưa bao giờ 
được trích dẫn (có ngành như kĩ thuật con số lên đến 70%). Ngay cả số 
bài báo được trích dẫn thì cũng rất thấp. Tính trung bình chỉ số trích 
dẫn 10 năm của các bài báo khoa học từ ĐHQGHCM là 3.5, còn rất kém so 
với ĐHQG Singapore là 8.82. Sau đây là vài con số để chúng ta so sánh về
 chất lượng khoa học của vài trường tiêu biểu (tất cả là tính trong thời
 gian 5 năm 2006-2010):
Số bài báo khoa học 
 ĐHQG-HCM: 720 bài
 ĐH Malaya: 6755
 ĐH Mahidol: 6217
 ĐHQG Singapore: 28972
 ĐHQG Seoul: 27089
 UNSW (Úc): 21459
 ĐH Sydney: 26865
Chỉ số tác động (% cao hơn hay thấp hơn trung bình thế giới)
 ĐHQG-HCM: 26.9 
 ĐH Malaya: 26.9 
 ĐH Mahidol: 47.7
 ĐHQG Singapore: 54.9
 ĐHQG Seoul: 60.6 
 UNSW (Úc): 57.1 
 ĐH Sydney: 61.8
Chỉ số xuất sắc (là % bài báo được trích dẫn nhiều nhất; “nhiều” ở đây là nằm trong nhóm “top 10%” trong mỗi chuyên ngành)
 ĐHQG-HCM: 16.1 
 ĐH Malaya: 18.1 
 ĐH Mahidol: 9.9 
 ĐHQG Singapore: 13.1 
 ĐHQG Seoul: 19.7 
 UNSW (Úc): 17.9 
 ĐH Sydney: 18.0
Thứ ba là đội ngũ giáo sư, giảng viên và
 nhà khoa học. VN chưa có một giáo sư hay một nhà khoa học nào đứng vào 
hàng các nhà khoa học “eminent” (lừng danh) trên thế giới. Dĩ nhiên, VN 
có vài nhà khoa học có tiếng trên thế giới trong chuyên ngành của họ, 
nhưng ngay cả trong chuyên ngành, cái “có tiếng” đó cũng chỉ là hạng 
trung bình hay trên trung bình một chút. Theo tôi biết, VN chưa có một 
nhà khoa học được mời diễn thuyết trong phiên họp khoáng đại của các hội
 nghị số 1 trong chuyên ngành. Chính vì thế mà VN chưa có dấu ấn khoa 
học trên trường quốc tế.
Nói ngoài lề một chút, ngay cả đi dự hội
 nghị nước ngoài mà còn bị hạn chế thì nói gì đến chuyện giáo sư VN có 
thể quảng bá đại học của mình. Những chuyện nhỏ như thế có tầm ảnh hưởng
 lớn đến thương hiệu của đại học.
Thứ tư là sinh viên tốt nghiệp trong môi
 trường toàn cầu hoá. Có thể nói rằng các đại học VN hiện nay chỉ đào 
tạo chuyên viên cho thị trường lao động ở VN là chính, chứ chưa thể vươn
 ra thế giới. Nhưng chất lượng đào tạo nói chung chưa cao. Ngay cả ở 
trong nước các sinh viên ra trường cũng chưa đáp ứng yêu cầu của kĩ 
nghệ. Khi được hỏi nguồn nhân lực công nghệ cao của VN ở đâu trên thế 
giới, tổng giám đốc Intel Việt Nam cho biết “lực lượng lao động trong 
lĩnh vực này vẫn chưa đáp ứng yêu cầu về cả số lượng lẫn chất lượng 
trước nhu cầu tuyển dụng.” Sau khi tuyển dụng được nhân viên, Intel vẫn 
phải gửi họ sang Malaysia để đào tạo.
Đào tạo trong nước còn chưa đạt, thì làm
 sao nói đến chuyện đào tạo cho nhân lực toàn cầu. Đại học là một trung 
tâm khoa học và văn hoá quốc tế, nhưng số sinh viên và giảng viên nước 
ngoài ở các đại học VN hầu như chỉ đếm đầu ngón tay. Đại học VN vẫn chưa
 có tính quốc tế. Chưa có quốc tế hoá thì nói gì đến “đẳng cấp quốc tế”.
Bốn yếu tố trên tương tác với nhau. Có 
giáo sư giỏi thì mới có nghiên cứu khoa học có phẩm chất tốt; nghiên cứu
 sẽ tạo ra “ngôi sao”; ngôi sao sẽ đào tạo sinh viên giỏi; sinh viên 
giỏi mang tiếng thơm cho trường. Bản thân giáo sư giỏi qua công bố quốc 
tế cũng tạo danh cho trường. Tôi nghĩ tất cả đều bắt đầu từ con người và
 nghiên cứu khoa học. Các trường đại học VN thiếu cả hai thì rất khó trở
 thành “đẳng cấp quốc tế” trong tương lai gần.
Cơ chế hiện nay chưa cho phép các trường
 đại học VN thu hút nhân tài trên thế giới. Thật ra, cho dù VN có cơ chế
 và tiền bạc để thu hút nhân tài, các giáo sư đẳng cấp quốc tế cũng ngần
 ngại đến VN vì các đại học VN chưa có “thương hiệu” trong khoa học và 
cũng chưa biết tương lai ra sao. Mỗi người thường chỉ có 5-10 năm để dấn
 thân vào một thách thức mới, nếu cuộc dấn thân thất bại thì sự nghiệp 
coi như thất bại. Do đó, vấn đề lại xoay quanh vòng tròn luẩn quẩn: 
thiếu người tài dẫn đến nghiên cứu kém chất lượng, nghiên cứu kém chất 
lượng → đại học không có tiếng tốt → khó thu hút người tài.
VN vẫn hay hô hào “đẳng cấp quốc tế” 
nhưng tiếc thay phần lớn có vẻ chỉ nặng về hình thức. Chẳng hạn như 6 
năm trước, ĐHQG-HN có kí kết hợp đồng với Tập đoàn Dầu khí (3) để xây kế
 hoạch có giải Nobel! Cho đến nay, chưa biết khả năng có giải Nobel là 
bao nhiêu, nhưng rõ ràng đó là một điều rất bất khả thi. Giải Nobel 
không có được từ hợp đồng, mà từ nghiên cứu khoa học có phẩm chất cao. 
Một hình thức khác là xem nghiên cứu khoa học như là một phong trào. 
Khắp nơi người ta làm nghiên cứu để có cái chứng từ làm … “chiến sĩ thi 
đua”. Đó là những cách làm rơi rớt từ thời bao cấp XHCN. Không ai khuyến
 khích nghiên cứu khoa học như kiểu VN.
Tôi nghĩ nên dẹp bỏ những hình thức như 
thế, và thay vào đó là khuyến khích các nhà khoa học làm nghiên cứu có 
chất lượng cao và công bố trên các tập san tốt. Cần phải có hình thức 
tưởng thưởng những nhà khoa học có thành tích tốt. Tôi tính ra mỗi đại 
học lớn như ĐHQG - HCM hay ĐHQG-HN chỉ cần tổ chức lại lực lượng nhà khoa 
học theo nhóm, và chỉ cần chừng 1000 nhà nghiên cứu (dĩ nhiên kể cả 
nghiên cứu sinh) công bố thường xuyên. Với lực lượng đó thì số bài báo 
mỗi năm dễ dàng đạt con số 1500-2000. Chỉ vài năm là có “momentum” để 
tiến lên một nấc cao hơn. 
Một khi đã có số lượng, bước kế tiếp là nâng 
cao phẩm chất. Từ đó, giấc mộng đẳng cấp quốc tế sẽ không xa.
Nguyễn Văn Tuấn
 
Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính 
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam,  Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống,  Thơ cho con