TRƯỜNG HỢP VÕ PHIẾM
Thu Tứ
Chúng tôi vô cùng bất đắc dĩ mới lên tiếng Chúng tôi hiểu nhà văn Võ Phiến hơn bất cứ ai Tại sao chúng tôi trở nên bất đồng Nhà văn Võ Phiến trong những tư cách khác Một lập trường chính trị hoàn toàn bất ổn Một cách nhìn lịch sử cũng hoàn toàn bất ổn Tại sao nhà văn Võ Phiến chống cộng Tại sao nhà văn Võ Phiến nổi tiếng chống cộng Một lòng yêu nước tự ti Hai phát biểu riêng tư ý nghĩa Lời tổng kết về văn nghiệp Võ Phiến
Chúng tôi vô cùng bất đắc dĩ mới lên tiếng
Chẳng ai muốn đi chỉ ra cái sai của người đẻ ra mình!
Chúng
tôi làm việc này vì vừa được biết một tổ chức phi chính quyền trong
nước đang có kế hoạch tích cực phổ biến những tác phẩm Võ Phiến chứa nội
dung chính trị sai lầm. E rằng việc làm của họ có thể khiến một số
người đọc hoang mang, hại đoàn kết dân tộc, chúng tôi quyết định tự mình
phản bác nội dung này.
Chúng tôi cảm thấy có một chút trách
nhiệm về việc làm nói trên của tổ chức phi chính quyền kia. Số là, trong
hai năm qua, do nhà nước Việt Nam nới lỏng qui định về xuất bản, nhà
xuất bản Nhã Nam ở Hà Nội có in lại hai tác phẩm của nhà văn Võ Phiến là
Quê hương tôi và Tạp văn. Cả hai tác phẩm này đều do
chúng tôi chọn lựa và biên tập, theo sự ủy quyền từ lâu của thân phụ.
Chúng tôi cố chọn những tác phẩm vửa giá trị nhất vừa hoặc không chứa
hoặc chứa rất ít nội dung chính trị. Nếu có nội dung chính trị, khi biên
tập chúng tôi loại bỏ hết. Mục đích của việc chọn và bỏ như thế là đưa
những thành tựu văn học đỉnh điểm của văn nghiệp Võ Phiến đến với người
đọc mà không gây hại cho nước. Chúng tôi đã tưởng mình thế là chu đáo
với nhà với nước! Hóa ra, việc hai tác phẩm Quê hương tôi và Tạp văn
được người đọc quốc nội đón nhận khá tốt lại chính là cái nền rất tiện
lợi cho tổ chức kia toan đặt lên đấy thứ nội dung hoàn toàn bất ổn trong
tác phẩm Võ Phiến!
Chuyện đang xẩy ra còn làm chúng tôi sốt ruột
về tương lai. Sẽ hết nhóm nọ đến phe kia những lúc nào đó đem vận dụng
văn nghiệp Võ Phiến cách có hại cho nước. Phải làm cho thật rõ về cái
phần nội dung chính trị sai lầm trong văn nghiệp ấy ngay bây giờ.
Chúng tôi hiểu nhà văn Võ Phiến hơn bất cứ ai
Chúng tôi lại còn một lý do nữa khiến việc lên tiếng càng không thể tránh được.
Do
quan hệ đặc biệt và do đã ở gần nhà văn Võ Phiến trong không biết bao
nhiêu năm, chúng tôi được nghe tận tai những phát biểu của ông về tình
hình đất nước mà chắc chắn chưa ai từng nghe. Ngoài ra, do yêu thích văn
học, chúng tôi đã đọc tất cả tác phẩm Võ Phiến rất kỹ. Hơn nữa, chúng
tôi còn đọc để soát lại trước khi đưa in đa số tác phẩm Võ Phiến tái bản
hoặc xuất bản ở nước ngoài. Kết quả của không biết bao nhiêu lượt nghe
những lời phát biểu thoải mái và đọc rất kỹ tác phẩm là: không ai có thể
biết lập trường chính trị và cách nhìn lịch sử của nhà văn Võ Phiến rõ
bằng chúng tôi.
Cái biết ấy trong tình hình cái lập trường bất
ổn và cái cách nhìn cũng bất ổn đang được một số người tìm cách tái phổ
biến, nó trở thành một sức nặng bắt chúng tôi phải bất chấp quan hệ tối
thân thiết mà lên tiếng chỉ sai.
Tại sao chúng tôi trở nên bất đồng
Trước
khi về thăm quê hương lần đầu tiên năm 1991 chúng tôi đã tuyệt đối tin
những nghĩ ngợi của thân phụ mình về chuyện đất nước thời đánh Pháp và
đánh Mỹ.
Chúng tôi về nước rất nhiều lần, mỗi lần rất lâu, thăm
thân rất ít, coi như toàn bộ thời gian ở trong nước dành cho việc đi
tham quan, chủ yếu miền Bắc. Chúng tôi không ở khách sạn sang trọng,
không đi tua, mà ở những nhà khách rẻ tiền, đi xe khách, xe ôm, xe
xích-lô, có lần mua xe đạp đạp dạo quanh vùng ngoại ô Hà Nội kia thường
xuyên đến nỗi có người ngồi chợ tưởng nhầm là dân buôn! (Chúng tôi vẫn
có lối du lịch “bụi” như vậy từ trước chứ không phải đến khi về nước mới
thế.)
Với lối tham quan như vừa nói, chúng tôi nhanh chóng trở
nên rất đỗi hoang mang! Chúng tôi thấy người Việt Nam ngoài Bắc vui vẻ,
bình thản, vừa giữ được phần lớn nền nếp cũ, lại vừa có thêm cái phong
cách “cách mạng”, mọi người bình đẳng, cũng rất hay. Bấy giờ miền Bắc
cũng như cả nước, đang có một số hiện tượng xã hội tiêu cực do kinh tế
trì trệ kéo dài, vật chất rất thiếu thốn, nhưng nhìn chung người tuy
nghèo mà văn hóa tinh thần rất đáng hãnh diện. Đâu là cái ảnh hưởng cực
xấu của chủ nghĩa cộng sản đối với văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam,
mà mình đã đọc thấy trong tác phẩm của người đẻ ra mình?! Than ôi, hóa
ra chỉ là kết quả của những kinh nghiệm rất giới hạn cả về không gian
lẫn thời gian cộng với những câu chuyện kể của một ít bạn bè người Trung
cùng hoàn cảnh, một số đồng nghiệp người Bắc di cư, vài cán bộ cộng sản
“hồi chánh”, thêm vài tác phẩm “Nhân Văn Giai Phẩm”, tất cả được một
trí tưởng tượng hết sức phong phú và một tâm lý đặc biệt bi quan suy
diễn nên!
Ngoài cái biết trực tiếp như vừa nói, chúng tôi còn nhờ
thói quen hay đọc sách báo mà biết thêm được vô số chuyện lạ đối với
mình. Từ văn hóa, chúng tôi tìm hiểu sang lịch sử, mới biết đến hay biết
rõ nhiều chuyện đất nước rất to, như Tuyên Ngôn Độc Lập, Hà Nội Kháng
Chiến Sáu Mươi Ngày Đêm, chiến dịch Biên Giới, chiến dịch Điện Biên Phủ,
mà cho đến lúc ấy hoặc chưa nghe bao giờ hoặc chỉ nghe hết sức loáng
thoáng với lời bình phẩm hạ giá kèm theo. Những “voi” sự kiện theo nhau
lù lù bước ra từ quá khứ khiến chúng tôi hết sức bỡ ngỡ!
Vì đã
bị “tuyên truyền” rất kỹ, cũng phải đến hơn mười năm sau lần về nước đầu
tiên, sau khi nghĩ đi nghĩ lại không biết bao nhiêu lần, chúng tôi mới
thấy được thật rõ ràng lịch sử dân tộc trong khoảng 1945-1975 thực ra là
như thế nào.
Nhà văn Võ Phiến trong những tư cách khác
Nhà
văn Võ Phiến là một người đứng đắn, không bao giờ làm việc gì trái
lương tâm để thủ lợi. Một người không bao giờ cậy thế bắt nạt, lấn lướt
ai. Một người khiêm tốn, không bao giờ khoe khoang. Một người ăn nói
luôn ôn tồn, thái độ luôn hòa nhã.
Nhà văn Võ Phiến là một thành viên tận tụy của gia đình, gia tộc.
Nhà văn Võ Phiến đóng góp rất đáng kể vào văn học Việt Nam trong thế kỷ 20.
Một lập trường chính trị hoàn toàn bất ổn
Nhà
văn Võ Phiến viết nhiều thể loại. Lập trường chống cộng của ông được
đưa ra rải rác khắp nơi trong nhiều loại tác phẩm khác nhau, khi là hẳn
một bài tạp luận hay tạp bút, khi là lời nhân vật trong truyện ngắn hay
truyện dài, khi là những đoạn trong một tác phẩm phê bình hay nhận định
văn học v.v.
Lập trường chống cộng của nhà văn Võ Phiến liên hệ đến ba vấn đề: giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, chọn lựa ý thức hệ.
Về giải phóng dân tộc, nhà văn Võ Phiến khẳng định không có nhu cầu!!!
Ông cho rằng sớm muộn Pháp cũng trả độc lập cho ta, viện dẫn những chuyện xảy ra trên thế giới.
Đúng
là đế quốc Anh đã tự giải tán trong hòa bình. Nhưng Pháp không phải là
Anh. Pháp cương quyết tiếp tục giữ thuộc địa và cướp lại những thuộc địa
tạm mất trong Thế chiến thứ Hai. Song song với hành động tái xâm lược ở
Việt Nam, tháng 8-1945 quân đội Pháp thảm sát hàng chục ngàn người dân
nổi dậy ở thành phố Sérif, An-giê-ri, và từ tháng 3-1947 đến tháng
12-1948 đàn áp kháng chiến ở Madagascar, giết có thể đến hơn 100.000
người! Ngay cả sau khi thua to ở Điện Biên Phủ, phải chấp nhận rút khỏi
Việt Nam, Pháp vẫn cố giữ An-giê-ri để rất nhiều máu phải đổ nữa rồi mới
chịu thôi làm đế quốc.
Nhà văn Võ Phiến nhắc những miền đất ở
châu Phi được Pháp trả lại độc lập dễ dàng: thì những nơi ấy chính đã
may mắn được hưởng thành quả rực rỡ của kháng chiến Việt Nam và kháng
chiến An-giê-ri đấy chứ! Mà thực ra cũng không phải may mắn: ai cũng
biết những “nước” Phi châu mới kia chỉ có cái vỏ độc lập chứ ruột thì
vẫn nằm trong tay Pháp. Từ ngày “độc lập” năm 1960, các nước ấy đã bị
Pháp ngang nhiên can thiệp quân sự hơn 30 lần! Vai trò áp đảo của Pháp
trong vùng rõ ràng tới nỗi từ lâu đã sinh ra cái từ Francafrique: Phi nhưng mà “Phi Pháp”!
Dân
tộc Việt Nam với ít nhất hai mươi mấy thế kỷ văn hiến, dân tộc Việt Nam
mà chính toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã nhận xét là nhất ở Đông
Nam Á, phải qua đến Nhật mới gặp được trình độ tương đương (1), dân tộc
ấy lại nên như những giống người còn bán khai ở châu Phi ngồi chờ giặc
thua to ở nơi khác, ban phát cho một thứ gọi-là-độc-lập hay sao?!!
Sau
Thế chiến thứ Hai, không phải đế quốc nào cũng chọn buông thuộc địa.
Chính dân tộc Việt Nam anh hùng đã dẫn đầu những dân tộc bị trị trong
việc bắt đế quốc Pháp phải buông thuộc địa.
Hễ có kẻ đè đầu cưỡi
cổ, thì khi có cơ hội ta phải vùng lên đánh hất nó xuống, chứ lẽ nào cứ
ngồi yên đợi nó chán cưỡi chán đè!!!
Lý luận “không cần kháng
chiến” hoàn toàn không có giá trị. Nó gốc ở cái ý muốn bào chữa cho
những người không tham gia kháng chiến và cái ý muốn phủ nhận công lao
to lớn của đảng cộng sản Việt Nam và ở một tâm lý tự ti về văn hóa dân
tộc mà chúng tôi sẽ trình bày sau.
Về thống nhất đất nước, nhà văn Võ Phiến đặt việc chống cộng lên trên việc thống nhất đất nước.
Sau
khi thua ở Điện Biên Phủ, đế quốc Pháp phải chấp nhận rời khỏi nước ta.
Cuộc kháng chiến gian khổ, oai hùng do đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo
đã thành công! Nhưng một số người Việt Nam – những người đã không tham
gia kháng chiến hoặc theo giặc đàn áp kháng chiến (!!!) - không chịu để
toàn dân đi bầu tự chọn chính quyền mà dựa vào thế lực siêu cường Mỹ
dựng lên một “nước” trên một nửa nước!!!
Tổ tiên ta bao nhiêu
công phu, xương máu, qua bao nhiêu đời mới mở được chừng này đất, để bây
giờ đất chia hai sao? Dân tộc Việt Nam mấy ngàn năm trải bao lượt thử
thách vẫn là một để bây giờ thôi là một sao?
Hễ có cơ hội, phải cố hết sức thống nhất đất nước.
Cơ
hội đã có: từ năm 1960 chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu lung lay, khởi
đầu do một số đảng phái bất mãn về chính sách, sau đó do đông đảo Phật
tử đấu tranh chống thiên vị tôn giáo. Năm 1963 chính quyền Ngô Đình Diệm
bị lật đổ. Tiếp theo là đảo chính liên miên. Nhân tình hình thuận lợi,
quân kháng chiến Miền Nam và quân đội Miền Bắc tiến công mạnh mẽ. Đâu
muốn chết đến người Mỹ, nhưng thấy “tiền đồn” Việt Nam Cộng Hòa quá nguy
ngập, nhà nước Mỹ đành gấp rút cho hơn nửa triệu lính đổ bộ. Chính
quyền Sài Gòn trở nên tạm ổn định, nhưng biển Mỹ kim tiền viện trợ lại
nhanh chóng gây ra nạn quan chức tham nhũng hết sức trầm trọng. Tổn thất
sinh mạng binh lính Mỹ, ảnh hưởng tai hại đến kinh tế Mỹ, sự kiên cường
của kháng chiến Miền Nam và quân dân Miền Bắc, cùng với sự bất lực của
chính quyền Sài Gòn, khiến nội bộ Mỹ trở nên chia rẽ trầm trọng, dẫn đến
quyết định rút hết quân ra. Chỉ hai năm sau khi lính Mỹ rút, nước Việt
Nam thống nhất. Tổn thất hơn 210.000 lính chết và bị thương, thả xuống
ba lần rưỡi lượng chất nổ đã thả trong Thế chiến thứ Hai (!!!), tiêu mất
gần một ngàn tỉ đô-la (tính theo giá đô-la năm 2011), mà siêu cường Mỹ
rút cuộc vẫn thất bại trong ý đồ chia hai nước ta.(2) Mỹ thảm bại, chắc
chắn có một phần do đã ủng hộ một chính quyền không được lòng dân.
Bất
chấp cơ hội thống nhất đất nước đã tới, nhà văn Võ Phiến vẫn tiếp tục
ủng hộ sự tồn tại của chính quyền Sài Gòn. Đó là một lập trường đi ngược
lại với lý tưởng dân tộc.
Về chọn lựa ý thức hệ, nhà văn Võ Phiến tuyệt đối bác bỏ chọn lựa chủ nghĩa cộng sản.
Chọn lựa một chủ nghĩa, phải trên cơ sở nhu cầu đất nước và phải căn cứ vào kết quả cụ thể.
Xét nhu cầu thì:
Thời
Pháp thuộc có nhu cầu hết sức lớn là đánh đuổi giặc Pháp. Đến cuối thập
kỷ 1910, nỗ lực cứu nước của các nhà nho đã coi như hoàn toàn thất bại.
Công cuộc giành lại độc lập đòi hỏi một đường hướng mới. Vừa đúng lúc
ấy bên Tây phương nẩy ra một thứ chủ nghĩa nhiệt liệt bênh vực những
người bị áp bức, với những phương cách rất cụ thể để tổ chức họ thành
lực lượng đấu tranh lợi hại. Quốc gia tiên phong ứng dụng chủ nghĩa ấy
là Liên Xô, một cường quốc. Ở Việt Nam đang có vô số người bị áp bức,
nếu chọn chủ nghĩa cộng sản thì trước mắt có phương tiện để tổ chức họ
thành đoàn thể chặt chẽ, thêm về lâu dài có thể có được nguồn ngoại viện
cần thiết cho kháng chiến: tại sao lại không?
Thời Pháp thuộc
còn có nhu cầu khác cũng rất quan trọng là cải cách xã hội để san bằng
những chênh lệch quá độ nẩy sinh như một kết quả của tình trạng đất nước
bị ngoại nhân cai trị lâu ngày.(3) Chủ nghĩa cộng sản có vẻ là một
phương tiện tốt để thực hiện việc cải cách này, tại sao lại không chọn?
Xét kết quả thì:
Đối
với hai đại sự là giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, chủ nghĩa
cộng sản rõ ràng là chọn lựa đúng. Nhờ đông đảo nhân dân đoàn kết chặt
chẽ với tinh thần hy sinh cao độ và nhờ có ngoại viện cần thiết, mà cả
hai đại sự đã thành công tốt đẹp.
Đối với việc cải cách xã hội,
tuy trong một thời gian đã xảy ra sai lầm khiến một số người bị xử oan,
nhưng mục đích san bằng bất công có đạt được. Nhân đây cũng nên nói về ý
nghĩa của việc “sửa sai”. Nó chính là một ví dụ về khả năng Việt hóa
món nhập ngoại của dân tộc Việt Nam. Ngay từ năm 1924 Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định cần xem xét lại chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở lịch sử phương
Đông.(4) Tiếc một phần do hoàn cảnh chiến tranh, trong cải cách ruộng
đất việc xem xét lại đã không được tiến hành kịp thời. Nhìn chung, ở
Miền Bắc văn hóa dân tộc đã làm mềm hẳn chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy,
với kết quả là một xã hội về cơ bản vừa giữ được những giá trị truyền
thống tốt đẹp vừa có một cái không khí bình đẳng hơn trước cũng tốt đẹp.
Nghĩa là, ít nhất trong khung thời gian liên hệ, việc chọn chủ nghĩa cộng sản không có gì sai.
Tóm tắt về lập trường chính trị của nhà văn Võ Phiến
Trong
khi những người cộng sản Việt Nam lập hết công giải phóng dân tộc đến
công thống nhất đất nước, cùng lúc dần dần cải cách ý thức hệ cộng sản
cho hợp với văn hóa truyền thống và điều kiện xứ sở, thì nhà văn Võ
Phiến hững hờ với giải phóng, thờ ơ với thống nhất, đem toàn lực tiến
công cái bản gốc của ý thức hệ ấy!
Ông bảo chủ nghĩa cộng sản là xấu. Trông vào kết quả trên nhiều mặt, rõ ràng nó chẳng xấu cho đất nước quê hương một chút nào!
Một cách nhìn lịch sử cũng hoàn toàn bất ổn
Ngoài lập trường chống cộng, tác phẩm Võ Phiến còn chứa một cái nhìn về lịch sử dân tộc trong thế kỷ 20.
Ở
đây có lẽ nên nhắc ngay đến cái khuynh hướng phân tích tâm lý nhân vật
“chẻ sợi tóc làm tư” nổi tiếng của nhà văn Võ Phiến. Thực ra không chỉ
khi viết truyện mà cả trong đời sống ông cũng thế, cũng thích chẻ cái
mình nhìn ra cho thật nhỏ. Và ông đặc biệt ưa chú mục vào những cái xấu
hoặc bất thường (tuy bản thân không hề xấu hoặc bất thường).
Mỗi người chỉ có đúng một cách nhìn. Tất nhiên nhà văn Võ Phiến đã nhìn lịch sử dân tộc bằng chính cách vừa nói trên.
Kết
quả là, đọc ông ta gần như toàn gặp những người dân không biết yêu nước
là gì (thỉnh thoảng có gặp thì nhân vật yêu nước hiếm hoi ấy lộ vẻ lạc
lõng rõ rệt); không thấy thực dân khai thác tài nguyên bóc lột lao động
đâu cả, chỉ thấy cán bộ cộng sản hủ hóa; không thấy giặc Pháp tàn bạo
với người Việt Nam đâu cả, chỉ thấy có dân bị đấu tố oan; không thấy
đông đảo nhân dân nô nức ủng hộ chiến sĩ, hàng hàng lớp lớp chiến sĩ
hăng say đánh giặc ngoại xâm, lập chiến công oai hùng đâu cả, chỉ thấy
nhiều người bị làm khổ và nhiều kẻ liều chết ngớ ngẩn!!! Không có những
việc tốt nhà nước cộng sản đã làm cho dân nghèo nào hết, chỉ có những
xáo trộn xã hội hoàn toàn vô ích!!!...
Dân tộc Việt Nam đâu phải
như vậy. Sự thực về cuộc cai trị của đế quốc Pháp, về kháng chiến Việt
Nam, về những việc làm của đảng cộng sản Việt Nam, đâu phải như vậy.
Sở
dĩ nhà văn Võ Phiến thấy vậy, ấy bởi ông đã chăm chú nhìn những thành
phần thiểu số, những chuyện lẻ tẻ, nhất thời. Chỉ có một việc cải cách
ruộng đất thực hiện quá tay là đã xảy ra ở khá nhiều nơi và kéo dài khá
lâu. Nhưng “sai” ấy đã được “sửa”.
Cái nhìn Võ Phiến ngoài tính rất đỗi cục bộ và tập trung vào cái xấu hoặc bất thường, còn một đặc tính nữa là hay khuếch đại.
Nhìn
chỗ xấu, chẻ nhỏ, phóng to... Có là Tây Thi thì cũng không thể còn đẹp
nổi dưới cái nhìn như thế! Thực ra đâu còn khuôn mặt nào nữa mà đẹp với
xấu! Một công cuộc vĩ đại đầy ý nghĩa tốt đẹp cũng chẳng khác gì. Nhìn
nó như nhà văn Võ Phiến nhìn thì thấy thật rõ những tiêu cực rời rạc bé
nhỏ, mà không sao thấy được cái toàn thể tích cực liền lạc lớn lao.
Cách nhìn là quan trọng nhất. Nhưng nhìn đâu cũng có đóng góp vào cái thấy của người nhìn.
Có
thể đặt vấn đề, hay là quê hương nhỏ của nhà văn Võ Phiến là huyện Phù
Mỹ tỉnh Bình Định nó đã “ngoại lệ” khiến ông đâm ra dễ nghĩ lệch về
chuyện đất nước? Quả thực, ở Phù Mỹ thời Pháp thuộc gần như không thấy
bóng giặc Pháp mà chênh lệch giàu nghèo cũng không đáng kể. Nhưng ngay ở
Phù Mỹ, chắc chắn cũng đã có rất nhiều người yêu nước, chẳng qua nhà
văn không chú ý đến họ. Hơn nữa, dù chỉ nhìn tình hình Phù Mỹ mà thôi
khó thấy được đại cục nước Việt Nam, thì thiết tưởng một người lên tiếng
về đại cục như nhà văn Võ Phiến có trách nhiệm phải nhìn cho thật rộng,
nhìn khắp cả nước, chứ đâu được nhận định về toàn quốc trên cơ sở tình
hình ở chỉ địa phương mình!
Cuối cùng, về “cách nhìn Võ Phiến”,
có lẽ cũng nên nêu lên rằng nó lẽ tự nhiên dẫn tới tâm lý bi quan, là
một nét nổi tiếng của văn chương Võ Phiến. Bi quan trong văn thì không
sao cả. Nhưng trong cuộc đấu tranh để sinh tồn của cả một dân tộc, thì
hết sức tai hại.
Tại sao nhà văn Võ Phiến chống cộng
Nhà văn Võ Phiến lớn lên ở huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
Cái
lối giặc Pháp cai trị nước ta mỗi nơi một khác đã làm cho giặc gần như
vô hình đối với người thanh niên mà sau này sẽ là nhà văn Võ Phiến. Bởi
về kinh tế Phù Mỹ không có gì hấp dẫn, nơi ấy giặc chỉ hiện diện nhỏ
xíu, cho có mà thôi. Đã ít lại “hiền”, chẳng làm gì ai, giặc cơ hồ như
không phải giặc! Không gian chính trị như thế bất lợi cho lòng yêu nước.
(Tuy vì việc học người thanh niên có xa quê một thời gian, nhưng Phù Mỹ
là môi trường chủ yếu. Hơn nữa, ngay tại những nơi ở trọ ông cũng không
có dịp thấy giặc nhiều và dữ. Người ấy đã chỉ lo học, không tham gia
bất cứ tổ chức cách mạng nào.)
Ở Phù Mỹ, không gian văn hóa cũng
không lợi cho lòng yêu nước. Như chính nhà văn Võ Phiến hơn một lần viết
ra, nơi vùng quê ấy hết sức hiếm những cái nó có giá trị khiến người
dân địa phương dễ dàng cảm thấy hãnh diện về đường tinh thần. Không kiến
trúc truyền thống ấn tượng như mái đình mái đền mái chùa cong vút,
không sinh hoạt truyền thống tưng bừng như lễ hội, hát quan họ hát chèo,
rất ít làng nghề với những sản phẩm mỹ thuật tinh tế, cũng không nhà
nho tài tử thơ phú tài hoa... Chỉ có bài chòi vài ngày dịp Tết và hát bộ
rất thi thoảng.
Người thanh niên Võ Phiến có trình độ học vấn
tương đối cao. Như một kết quả của chương trình giáo dục thuộc địa,
thanh niên ấy mang nặng ấn tượng tốt đẹp về văn hóa Tây phương.
Người
thanh niên Võ Phiến có đầu óc thực tế, chú ý nhiều đến điều kiện vật
chất, mà văn hóa Tây phương thì từ khi sáng kiến ra phương pháp khoa học
đã tỏ ra rất xuất sắc về cải tiến điều kiện vật chất.(5) Thanh niên ấy
ưa phân tích tâm lý, mà văn học Tây phương thì sở trường phân tích tâm
lý... Không phải không đáng kể đâu. Những chỗ hợp với Tây do bản tính
ấy đã kết hợp với kết quả của chương trình giáo dục thuộc địa tạo nên
một lòng đặc biệt nể mến Tây có ảnh hưởng nhất định đến thái độ riêng về
chuyện chung.
Người thanh niên Võ Phiến hay nghĩ ngợi, với cái
nhìn “tập trung vào chỗ xấu, chẻ nhỏ, phóng to”, hay hoài nghi, hay lo
(rất) xa và đặc biệt nặng lòng với gia đình gia tộc.
Người thanh
niên Võ Phiến tuy vậy có theo kháng chiến một thời gian, nhưng rồi một
phần do bị chấn động tâm lý nặng bởi những quá độ trong cải cách ruộng
đất, đã bỏ kháng chiến; được ít lâu, gia nhập một đảng phái chống cộng ở
địa phương, hình như chủ yếu do một người bà con thân lôi kéo, chẳng
bao lâu bị những người cộng sản bắt, nhận một án tù nhẹ vì đã không phải
là một thành viên tích cực của tổ chức kia, trong khi người bà con thân
bị án tử hình...
Không gian chính trị, không gian văn hóa, hoàn
cảnh giáo dục, đặc tính cá nhân, tất cả đã cùng nhau khiến một thanh
niên theo kháng chiến không mấy hăng say. Sau đó, một số biến cố chung,
riêng đẩy thanh niên ấy về phía những người chống cộng.
Tại sao nhà văn Võ Phiến nổi tiếng chống cộng
Viết
văn chống cộng thì lắm cây bút từ Miền Bắc di cư vào chịu khó viết.
Nhưng tác phẩm của họ điển hình lớn lời mà thiếu chi tiết cụ thể, rỗng
lý luận. Tác phẩm chống cộng của nhà văn Võ Phiến ngược lại: lời nhỏ kể
lể tỉ mỉ, đay nghiến, với lý luận (sai) kèm theo.
Chính quyền Sài Gòn để ý và đánh giá cao lối viết ấy. Năm 1960, truyện vừa Mưa đêm cuối năm của nhà văn Võ Phiến được giải thưởng “Văn học Toàn quốc”. Như Nhất Linh nhận xét trong Viết và đọc tiểu thuyết,
lời văn trong tác phẩm giật giải văn chương ấy hãy còn thô vụng.(6) Nó
được chọn rõ ràng vì nội dung chính trị phù hợp với nhu cầu tuyên
truyền của những người đang cai trị Miền Nam.
Sau Mưa đêm cuối năm,
được chính quyền Sài Gòn khuyến khích và được “đồng chí” tán thưởng,
nhà văn Võ Phiến tiếp tục cho ra đời những tác phẩm có nội dung tương
tự, viết chống cộng mỗi lúc một thêm “tinh vi”. Thực ra tác phẩm Võ
Phiến trở nên “vi” (tỉ mỉ) hơn nữa, chứ không phải “tinh” (thấy đúng bản
chất) hơn chút nào, vì nhìn cục bộ thì không thể thấy toàn thể. Cái
tiếng “chống giỏi” của nhà văn nhanh chóng lan rộng trong cái tiểu xã
hội phức tạp của những người chống cộng mà có lẽ đại đa số không thực sự
chia xẻ nội dung cụ thể của tác phẩm Võ Phiến, chưa nói nhiều người
hình như không hề cầm tới sách! Nhà văn Mai Thảo có lần đọc, thấy “nhiều
sắc thái địa phương”. Nhà văn Vũ Khắc Khoan cũng thử đọc, rồi phàn nàn
về những nhân vật “tù lù mù”. Chi tiết khó “chia”, mà lý luận hẳn họ
càng thấy khó “sẻ”, vì vốn dĩ chính bản thân họ có hay lý luận rắc rối
gì đâu. Đại khái, mỗi người chống cộng vì một số lý do riêng, rồi hễ cứ
nghe ai “chống giỏi” là rủ nhau hoan hô, không cần biết người kia cụ
thể chống thế nào!
Cái lối được trầm trồ mà không được đọc rồi
cũng xảy ra cho nhà văn Võ Phiến ở ngoài Bắc. Một số người “Nhân Văn
Giai Phẩm” nghe tiếng chống cộng của ông, sinh ngay cảm tình, tuy hầu
hết những người ấy chắc chắn rút cuộc chưa bao giờ đọc được một chữ văn
Võ Phiến! Thực ra giữa họ và nhà văn Võ Phiến có chỗ khác nhau rất căn
bản: họ đều đồng lòng kháng chiến đánh đuổi giặc Pháp, lấy việc ấy làm
quan trọng hơn cả, trong khi nhà văn Võ Phiến thì không. Nông nỗi của họ
xảy ra là do họ nghĩ giải phóng dân tộc xong rồi, Đảng không nên lãnh
đạo văn hóa nữa, mà nên để “trăm hoa đua nở”. Nhưng việc nước đã xong
đâu! Còn phải thống nhất đất nước. Với sự can thiệp của siêu cường Mỹ,
công việc sẽ vô cùng khó khăn. Cần phải duy trì ý chí chính trị và tinh
thần kỷ luật ở mức cao nhất. Tự do văn hóa sẽ ảnh hưởng xấu đến nỗ lực
duy trì này, do đó Đảng không thể chấp nhận được. Nhìn cách khác, tình
hình đất nước bấy giờ chưa thích hợp với một cải cách chủ nghĩa lớn như
vậy.
Vào cái khoảng thời gian Liên Xô vừa sụp, cái tiếng chống
cộng của nhà văn Võ Phiến còn khiến một số nhà văn Việt Nam ở trong nước
tìm cách bắt liên lạc với ông, hẳn vì họ nghĩ nhà nước cộng sản Việt
Nam cũng sắp sụp! Có người nhân dịp đi công tác qua Mỹ, đã tỏ tình thân
ái bằng cách tặng nhà văn Võ Phiến một chiếc đồng hồ đeo tay dùng lâu
năm. Người ấy từng tự nói nhờ Đảng mà tôi mới được thế này. Ấy thế mà
khi tưởng Đảng sắp đổ, ông vội vã đi ôm chầm lấy kẻ thù của Đảng! Ngán
cho “nhân tình thế thái”. Thân phụ chúng tôi có kể rằng, qua trò chuyện,
thấy nhà văn kia dường như chưa hề đọc một tác phẩm nào của mình!
Ra
hải ngoại, tiếng tăm của nhà văn Võ Phiến lớn hơn khi ông còn ở Sài
Gòn. Vì hai lý do. Thứ nhất, lẽ tự nhiên trong cái cộng đồng của những
người bỏ nước, ai chống chính quyền của nước đã bỏ thì được hoan nghênh,
chống càng mạnh càng được hoan nghênh. Thứ hai, việc nhà văn Võ Phiến
bắt đầu viết và viết trong một thời gian dài tác phẩm Văn học Miền Nam
khiến rất nhiều văn nhân hải ngoại đua nhau ca ngợi ông trong thời gian
dài. Sau khi toàn bộ tác phẩm ấy được trình làng, có khá nhiều phản ứng
bất lợi từ chính những người đã từng trông ngóng nó ra đời. Họ không
bằng lòng về một số nhận định văn học của tác giả. Chúng tôi cho rằng về
nhận định văn học, Văn học Miền Nam chứa nhiều ý kiến giá trị.
Nhưng cũng như đa số tác phẩm Võ Phiến, đáng tiếc, nó cùng lúc chứa
những phát biểu hoàn toàn sai lầm về lịch sử đất nước trong thế kỷ 20.
Một lòng yêu nước tự ti
Không biết bằng Paul Doumer
Khi
còn ở quê, do kiến thức rất giới hạn, người thanh niên Võ Phiến đinh
ninh Việt chỉ là học trò của Tàu. Sau khi vào Sài Gòn năm 1960, kiến
thức của nhà văn trẻ Võ Phiến tăng lên rất đáng kể. Ông dần dần biết ta
có những nét riêng...
Đọc Quê hương tôi và Tạp văn, mọi người khen tác giả uyên bác, biết nhiều về văn hóa Việt Nam.
Thực ra ngay trong Quê hương tôi
vốn cũng vẫn còn có chỗ tác giả lặp lại cái thành kiến sai lầm cũ kỹ
rằng ta chỉ là học trò của Tàu, song song với một số phát biểu xác đáng
về tiếng Việt, về ẩm thực Việt Nam, về áo dài..., nhưng chúng tôi đã
biên tập bỏ đi. Tác phẩm vẫn còn chứa vài ý được diễn rất kín đáo mà nếu
đọc thật kỹ độc giả có thể cảm thấy đằng sau những dòng chữ là chờn vờn
một tâm lý tự ti về văn hóa dân tộc.
Làm sao mà nhà văn Võ Phiến lại tự ti thế?
Xin
hãy để ý “quê hương tôi” chỉ là một nửa của đất nước thôi! Trong khi
nói cho thành thật, thì những thành tích cao nhất của văn hóa Việt Nam
trong chiều dài lịch sử dĩ nhiên đã được lập trên nửa khác, ngoài Bắc,
nơi đất gốc của dân tộc. So “cao” về văn hóa với ai, phải căn cứ vào
thành tích ở Bắc bộ. Thế mà kiến thức của nhà văn Võ Phiến về văn hóa
Việt Nam ở Bắc bộ đã không bao giờ đạt độ rộng và sâu cần thiết. Ngoại
trừ văn học, ông biết rất ít! Chính do cái biết thiếu ngặt nghèo ấy, mà
ông không được thoải mái khi so sánh văn hóa ta với văn hóa người.
Kể
ra, trên nửa phía nam của đất nước, nếu nhìn toàn thể những biểu lộ nơi
con người thì có lẽ cũng vẫn thấy được đúng trình độ dân tộc. Nhà văn
Võ Phiến không thấy đúng, hẳn bởi cái cách nhìn cục bộ và cái khuynh
hướng nhấn mạnh tiến bộ vật chất...
Hết sức đáng tiếc, rút cuộc
nhà văn Võ Phiến không biết trình độ tiến hóa của dân tộc Việt Nam bằng
Paul Doumer đã biết hơn hai mươi năm trước ngày ông chào đời!
Vì không biết nên mới “Á Phi”
Không
phải tình cờ mà khi bàn chuyện đất nước, nhà văn Võ Phiến hay nhắc tới
Phi châu. Ông ngỡ ta chắc không hơn Phi bán khai bao nhiêu, trong khi
thực ra giữa ta với họ có cái khoảng cách hai mươi mấy thế kỷ văn
hiến!!!
Chỉ tính từ sau Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam cũng đã lập
quốc hàng ngàn năm. Trong khi ở phần lớn Phi châu, gọi “nước” nọ “nước”
kia là mới gọi thôi, các biên giới nước cơ bản chỉ là biên giới thuộc
địa do các đế quốc Âu châu vẽ ra! Ta với Phi chỉ giống nhau ở chỗ cùng
bị Tây chiếm, chứ về trình độ tiến hóa thì khác hẳn nhau, nhập ta vào
với Phi thành “Á Phi nhược tiểu” là nhập thế nào!!! Vấn đề của ta là
giành lại độc lập, tổ chức lại xã hội để cạnh tranh về vật chất với Tây
phương. Vấn đề của Phi châu là tiến hóa! Pháp gọi Á Phi là đế quốc gọi
chung thuộc địa, không thèm phân biệt. Còn ta phải biết cái “giá ngọc”
của ta chứ! Nhà văn Võ Phiến phần không biết đúng trình độ dân tộc Việt
Nam, phần không rõ tình hình ở Phi châu, phần bị ảnh hưởng lời giặc
Pháp, mà đã nhầm lẫn rất to.
Học sau cũng được chứ
Nói
rằng nhà văn Võ Phiến không yêu nước thì không đúng. Nhưng ông yêu nước
tự ti, yêu mà không hăng hái đứng lên vì nước, vì quá nể cái kẻ đang
chiếm nước!
Lòng yêu nước tự ti của ông, chúng tôi còn nhớ ngày
niên thiếu ở Sài Gòn có lần trong một bữa cơm gia đình đã được nghe nó
hiện ra thành một câu bình phẩm về chuyện giặc Pháp cai trị nước ta. Câu
ấy “kinh khủng” tới nỗi chúng tôi thấy không nên viết ra đây.
Nhà
văn Võ Phiến như thế là không giống các nhà nho Việt Nam xưa kia. Tuy
rất quý Khổng Tử, nhưng cứ hễ con cháu Mã Viện xâm phạm bờ cõi là nho
Việt hăng hái tham gia kháng chiến ngay, đánh cho kỳ giặc phải rút sạch
về mới thôi.
Học giả Đào Duy Anh khi nghiên cứu truyền thống
trí thức yêu nước trong văn hóa Việt Nam đã nhận xét rằng đến thời đánh
Pháp truyền thống ấy vẫn còn. Đa số trí thức Tây học đã theo kháng
chiến, nhiều người bỏ sự nghiệp thành công tột bực mà theo.
Tàu Tây có gì hay thì ta chọn học sau cũng được, đâu cần phải để cho nó kéo vào hay tiếp tục cưỡi trên cổ ta mà dạy!
Hai phát biểu riêng tư ý nghĩa
Để
kết thúc những điều muốn nói về lập trường chính trị và cách nhìn lịch
sử của nhà văn Võ Phiến, chúng tôi xin kể hai phát biểu của ông trong
chỗ riêng tư.
Một hôm, về cuối thập kỷ 1990, đang trò chuyện với
chúng tôi về tài hành quân thần tốc của vua Quang Trung (một đề tài ưa
thích do hãnh diện địa phương), ông chợt lạc đề, trầm trồ việc những
người cộng sản đã đánh bại liên tiếp hai giặc thật lớn! Ông buông ra chỉ
đúng một câu rồi thôi, quay về với chuyện quân Tây Sơn như không hề đã
nói gì lạ cả.
Một hôm khác, có lẽ khoảng năm 2004, 2005, cũng
trong một dịp trò chuyện lan man, ông bỗng thốt lên rằng may quá, vào
đúng lúc cần thì dân tộc có một người lãnh đạo hết sức giỏi là Hồ Chí
Minh! Lần ấy, ông có nói thêm một chút, nhắc Hồ Chủ tịch là con một nhà
nho.
Như vậy... Tiếc thay, mọi việc đã lỡ làng từ rất lâu.
Về
phía chúng tôi, hai phát biểu bất ngờ nói trên của nhà văn Võ Phiến làm
chúng tôi thấy nhẹ lòng đáng kể mỗi khi nghĩ về thân phụ mình như một
người dân của tổ quốc Việt Nam.
Lời tổng kết về văn nghiệp Võ Phiến
Văn nghiệp Võ Phiến vừa tích cực vừa tiêu cực.
Tích cực, đáng lưu truyền, là phần văn học. Tiêu cực, đáng bỏ đi, là phần chính trị.
Về văn học, ấy là một tấm gương sáng về cố gắng học hỏi, trau giồi, cần lao đứng đắn, tự phát huy tối đa năng khiếu bẩm sinh.
Về
chính trị, ấy là cái bi kịch của một người Việt Nam sống giữa thời kỳ
lịch sử dân tộc cực kỳ khó khăn mà trước không tha thiết với độc lập,
sau không tha thiết với thống nhất, khăng khăng đặt chuyện chống chủ
nghĩa cộng sản lên trên tất cả. Rút cuộc, nhà văn Võ Phiến đã chống
cộng cực đoan hơn là những người cộng sản Việt Nam ứng dụng chủ nghĩa
cộng sản!
Sai lầm chính trị đã đưa tác phẩm Võ Phiến ra khỏi lòng
dân tộc. Đất nước đã độc lập, thống nhất lâu rồi. Nay đến lúc, nhân
danh bảo tồn những giá trị văn hóa Việt Nam, đưa tác phẩm Võ Phiến trở
về, sau khi lọc bỏ nội dung chính trị.
Nhà nước Việt Nam đã sáng
suốt khi quyết định cho tái bản sách Võ Phiến trong nước. Đáng tiếc,
một thiểu số đang lợi dụng tình hình quốc tế mà âm mưu tái phổ biến cả
những nội dung chính trị sai lầm. Việc tái phổ biến này vừa có thể gây
mất đoàn kết, hại cho nước, vừa xúc phạm sự thực lịch sử.
Tháng Tám, năm 2014 _______ (1)
“... phải sang đến tận Nhật Bản người ta mới thấy được một giống dân
tương xứng (...) Cả hai giống người Việt và Nhật (...) đều thông minh,
chăm chỉ và can đảm (...) Người Việt (...) vượt xa các dân khác (ở Ðông
Nam Á)” (P. Doumer, L”Indochine francaise (hồi ký), nxb. Vuibert et Nouy, Paris, 1905, dẫn theo Phạm Cao Dương, Lịch sử dân tộc Việt Nam,
nxb. Truyền Thống Việt, California, 1987). Năm 1905 Nhật đang lừng lẫy,
Việt đang nhục nhã: “Khen cho con mắt tinh đời, anh hùng đoán giữa trần
ai mới già”! P. Doumer thật là đại tri kỷ của dân tộc ta. Nhưng nhận
định chính xác của Doumer rồi nằm sâu chôn chặt trong hồi ký, không được
mấy người biết. Mà dù nhiều người Pháp có biết, thì chắc chắn cũng
không vì thế mà họ tự ý trả lại độc lập cho ta. Cưỡi cổ giống dân ưu tú
như thế, càng sướng chứ sao!
(2) Số liệu theo trang thevietnamwar.info và trang en.wikipedia.org.
(3) Chúng tôi chia xẻ ý kiến của học giả Nguyễn Hiến Lê rằng “thời trước nước mình không có giai cấp đấu tranh” (Hồi ký NHL,
nxb. Văn Học, VN, 1992, tr. 98-99). Nhưng tuy không có vấn đề giai cấp
như một kết quả của cấu trúc xã hội truyền thống, trong thời Pháp thuộc
đã xảy ra chênh lệch giàu nghèo quá độ, vì lúc bấy giờ quan điển hình
không còn là cha mẹ dân, không lo cho dân nữa, mà vừa ngay ngáy lo phục
vụ giặc cho thật kỹ vừa ngày đêm tận tụy bóc lột dân! Dưới quan, bọn
hào lý cũng bận bịu “hai lo”: một phục vụ quan, hai bóc lột dân! Và vì
trên quan dưới hào đều không vì dân, nên các địa chủ cũng tha hồ bóc
lột!
(4) “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý
nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu, mà châu Âu là
gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại (...) Mác cho ta biết rằng sự
tiến triển các xã hội trải qua ba giai đoạn: chế độ nô lệ, chế độ nông
nô, chế độ tư bản (...) Chúng ta phải coi chừng! Các dân tộc Viễn Đông
có trải qua hai giai đoạn (đầu) này không? (...) (Phải) xem xét lại chủ
nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương
Đông” (Nguyễn Ái Quốc, bài viết năm 1924, in lại trong Hồ Chí Minh toàn tập, 1995, tập I, tr. 464-469, dẫn theo Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, nxb. Văn Hóa – Thông Tin, Hà Nội, 1998, tr. 451-452).
(5)
Trong văn chương Võ Phiến ta thấy có khuynh hướng nhìn ra ngoài cuộc
sống, hướng về vũ trụ thay vì nhân sinh. Nhưng lúc nào nhìn “ra” thì
nhìn, còn cứ hễ quay đầu lại nhìn cuộc sống thì Võ Phiến thực tế chứ
không lý tưởng.
(6) Sau khi đọc lời phê bình thẳng thắn của Nhất
Linh, Võ Phiến đã cố cải tiến phần lời và đã đạt kết quả rất tốt. Lời
văn truyện ông trở nên sáng nhẹ hơn trước nhiều, trong khi lời tùy bút,
tạp văn tuy không bao giờ đẹp được như văn Nguyễn Tuân nhưng nhiều khi
gợi cảm, có sức lôi cuốn người đọc. Nhân thể, xin nhắc người đọc bây
giờ rằng nhà văn Võ Phiến đã có nhiều dịp sửa văn bản của những tác phẩm
ban đầu, nên nếu căn cứ vào sách được tái bản thì sẽ khó hiểu tại sao
Nhất Linh lại phê bình như vừa nói.
|
|