ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM. Người có đức thì lời văn thuần nhất, người có học vấn thì tri thức toàn diện, người có lý lẽ minh bạch thì sách luận khúc chiết. Ở Nguyễn Quân hội đủ tất cả những điều trên. Văn là người. Gọi Nguyễn Quân ( Khắc Niêm) là một trang thiếu niên anh tuấn cũng đáng mà gọi là một bậc lão thành cũng không phải là không xứng”. Đó là lời của cụ Cao Xuân Dục (1843–1923) học giả, nhà văn hóa, nhà văn Việt Nam, đại quan Đông các Đại học sĩ triều đình nhà Nguyễn , đánh giá cụ Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm Thượng thư Bộ Lễ đồng triều Nguyễn, người trụ cột của một dòng họ nếp nhà danh tiếng tôn tộc đại quy.. Trước VẦNG TRĂNG CỔ TÍCH (hình), đọc lại và suy ngẫm thấy lời đánh giá thật đáng kính, hiểu người biết mình và sâu sắc thay !(Hoàng Kim).
Cao Xuân Dục
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cao Xuân Dục (chữ Hán: 高春育; tự là Tử Phát, hiệu Long Cương Cổ Hoan Đông Cao; 1843–1923) là một quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam.
Năm 1876, ông đỗ Cử nhân, đồng khoa với Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh, Nguyễn Đôn Tiết ở Thanh Hoá và Phan Văn Ái ở Hà Nội. Trong quá trình làm quan, ông đã trải qua những chức:
Khi Trương Như Cương theo Pháp muốn làm Phó vương, bắt các quan trong triều phải ký vào biểu dâng lên Vua, Cao Xuân Dục đã không nghe theo, còn đề vào mấy câu:
Do đó mà ông bị gièm, giáng chức về làm Tri phủ huyện Quốc Oai, Hoàng Xá [1].
Cao Xuân Dục qua đời năm 1923, thọ 81 tuổi.
Tại thành phố Vinh, ngày 6 tháng 12 năm 2012, có cuộc hội thảo khoa học về đóng góp của Cao Xuân Dục trong nền văn học Việt Nam.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh có một con đường (trước là đường Cần Giuộc, ở Quận 5, gần cầu Chà Và trên đường đi ra phía cầu Nhị Thiên Đường) được đặt tên ông.
Tiểu sử
Cao Xuân Dục sinh năm 1843 tại thôn Thịnh Mỹ (Thịnh Khánh), xã Cao Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.Năm 1876, ông đỗ Cử nhân, đồng khoa với Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh, Nguyễn Đôn Tiết ở Thanh Hoá và Phan Văn Ái ở Hà Nội. Trong quá trình làm quan, ông đã trải qua những chức:
- Biện lư Bộ Hình (1883)
- Án sát Hà Nội (1883)
- Bố chính Hà Nội (1884)
- Tuần phủ Hưng Yên (1889)
- Tổng đốc Sơn Tây - Hưng Hóa - Tuyên Quang (1889)
- Khâm sai Chủ khảo trường thi Hương Hà Nam (1894)
- Tổng đốc Định Ninh (1896)
- Phong hàm Kiên Giang Quận công (1898)
- Phó Tổng tài Quốc Sử Quán (1898)
- Tổng tài Quốc Sử Quán (1903)
- Chủ khảo trường thi Hội (1901), quản Quốc Tử Giám
- Thượng thư Bộ Học (1907)
- Cơ mật viện Đại thần - Phụ chính Đại thần
- Phong hàm Thái tử Thiếu bảo (1908)
- Phong tước An Xuân tử (1911)
- Về hưu với hàm Đông các Đại học sĩ (1913).
Khi Trương Như Cương theo Pháp muốn làm Phó vương, bắt các quan trong triều phải ký vào biểu dâng lên Vua, Cao Xuân Dục đã không nghe theo, còn đề vào mấy câu:
|
|
Cao Xuân Dục qua đời năm 1923, thọ 81 tuổi.
Tại thành phố Vinh, ngày 6 tháng 12 năm 2012, có cuộc hội thảo khoa học về đóng góp của Cao Xuân Dục trong nền văn học Việt Nam.
Gia đình
Một số người con của Cao Xuân Dục cũng đã thành đạt:- Cao Xuân Tiếu, Phó bảng khoa Ất Mùi (1895), làm quan đến Thượng thư,
- Cao Xuân Khôi, Tú tài (1905),
- Cao Xuân Thọ, Cử nhân (1911), làm quan Tri phủ,
- Cao Thị Hòa, nhà thơ.
- Đặng Văn Thụy, con rể (cưới bà Cao Thị Bích, con gái ông), Đình nguyên Hoàng giáp năm Giáp Thìn (1904), làm quan đến chức Tế tửu.
- Hoàng Tăng Bí, con rể (cưới bà Cao Thị Thuyên, con gái ông), Phó bảng khoa Canh Tuất (1910)
- Cao Xuân Tảo, cử nhân (1912), làm quan Tá lư Bộ Lễ.
- Cao Xuân Huy, Giáo sư Triết học phương Đông và văn học Trung quốc ở Hà Nội, giải thưởng Hồ Chí Minh.
- Hoàng Minh Giám, cháu ngoại (con ông Hoàng Tăng Bí), giữ các chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam.
- Đặng Văn Hướng, cháu ngoại (con ông Đặng Văn Thụy), đỗ Phó bảng, từng làm Tổng đốc Nghệ An trong nội các Trần Trọng Kim, Quốc vụ khanh trong Chính phủ Hồ Chí Minh.
- Cao Xuân Hạo (con ông Cao Xuân Huy), nhà ngôn ngữ học nổi tiếng.
- Đặng Văn Việt (con ông Đặng Văn Hướng), Trung tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, người được mệnh danh là "Hùm xám đường số 4" vào năm 1950, đồng thời cũng là một nhà văn và dịch giả.
- Đặng Thị Tâm (con ông Đặng Văn Hướng), Giáo sư Tiến sĩ ngành Tâm lý trẻ em
- Đặng Văn Ký (con ông Đặng Văn Hướng), Giáo sư Tiến sĩ ngành Công nghệ chất dẻo
- Hoàng Vĩnh Giang (con ông Hoàng Minh Giám), Anh hùng lao động, Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Olympic Việt Nam
Nhận xét
Phó giáo sư Chương Thâu (Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu) có viết:- "Cao Xuân Dục có thể xứng đáng là một nhà văn hoá lớn ở nước ta cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Đứng đầu bộ Học và Sử Quán, ông chỉ đạo và tham gia biên soạn cùng một số học giả ở hai cơ quan này nhiều bộ sách về sử và địa lý".[2]
Tại Thành phố Hồ Chí Minh có một con đường (trước là đường Cần Giuộc, ở Quận 5, gần cầu Chà Và trên đường đi ra phía cầu Nhị Thiên Đường) được đặt tên ông.
Tác phẩm
Cao Xuân Dục tham gia soạn thảo các sách:- Đại Nam thực lục (ghi sử 1883-1888),
- Quốc Triều Sử Toát Yếu (ghi sử Nguyễn Kim -1886),
- Đại Nam Nhất Thống Chí (địa chí Trung Bộ - Duy tân - 1910),
- Đại Nam Dư Địa Chí Ước Biên (Trung và Bắc Bộ),
- Quốc Triều Luật Lệ Toát Yếu (Duy Tân 1907-1916),
- Quốc triều tiền biên toát yếu,
- Quốc triều khoa bảng lục (ghi chép tên họ, quê quán người thi đỗ),
- Quốc Triều Hương Khoa Lục (ghi chép tên họ, quê quán người thi đỗ).
- Bộ Nhân Thế Tu Tri (1901 - 8 tập 900 trang) trích trong Kinh Sử những lời hay ý đẹp nhằm giúp giáo dục con người tu dưỡng, sửa mình và mưu sinh;
- Long Cương Văn Đối;
- Long Cương Bát Thập Thọ Ngôn;
- Long Cương Đối Liên;
- Long Cương lai hạ tập;
- Long Cương hưu đình hiệu tần;
- Hà Nam trường hương thi văn tuyển;
- Hạ Thọ Liên;
- Hạ Ngôn đăng lục.
Chú thích
- ^ Tượng thờ tại Động Hoàng xá
- ^ Cao xuân Dục - Nhà văn hoá lớn cận đại - PGS TS Sử học Chương Thâu
Liên kết ngoài
Quốc sử quán (triều Nguyễn)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xem Quốc sử quán.
Quốc sử quán(chữ Hán: 國史館) của triều Nguyễn là cơ quan biên soạn lịch sử chính thức duy nhất ở Việt Nam trong suốt 125 năm từ năm 1821 tới năm 1945. Cơ quan này đồng thời cũng tham gia cả chủ đề về văn hóa, địa lý, con người của Việt Nam[1].Mục lục
Lịch sử
Tháng 7 năm 1820, Quốc Sử quán bắt đầu được xây dựng và hoàn tất sau đó 1 tháng, tọa lạc tại phường Phú Văn trong Kinh thành Huế (nay thuộc phường Thuận Thành, thành phố Huế). Sau đó nửa năm, vua Minh Mạng cho xây dựng và cải tạo lại hai dãy nhà bên tòa nhà chính thành nơi làm việc của quan lại, đồng thời ở cổng chính cho dựng hai tấm bia "Khuynh cái hạ mã" ở hai bên. Tới ngày 5 tháng 6 năm 1821, vua Minh Mạng cho làm lễ khai mạc Quốc sử quán tại điện Cần Chánh và chính thức đưa nó vào hoạt động.[1]Đến tháng 11 năm 1841, Quốc Sử Quán có thêm hai tòa nhà phụ nữa nằm ở hai bên do vua Thiệu Trị xây: tòa nằm bên trái dành cho các toản tu tên là Công thự, bên phải dành cho các biên tu tên là Giải vũ đài. Tháng 10 năm 1957, vua Tự Đức cho xây thêm Tàng bản đường nằm ở phía sau tòa nhà chính để đáp ứng nhu cầu chứa các tài liệu biên soạn và in ấn. Đến tháng 2 năm 1884, một dãy nhà ngói 7 gian 2 chái được xây thêm để dùng cho việc viên soạn Đại Nam thực lục chính biên kỷ thứ tư.[1]
Năm 1890, một số nhà quan tản cư được sửa chữa, đồng thời cho đóng thêm một số tủ gỗ sơn son để lưu trữ tư liệu và sách vở. Đến thời vua Thành Thái, một số tòa nhà phụ được tu bổ lại. Năm 1902, hầu hết Quốc sử quán được trùng tu lại. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Quốc sử quán ngưng hoạt động hoàn toàn.[1]
Tổ chức
Ban biên soạn của Quốc sử quán được chia thành các chức vụ và quyền hạn như sau[1]:Vai trò | Chức vụ | Quyền hạn và trách nhiệm | ||||
---|---|---|---|---|---|---|
Chỉ đạo biên soạn¹ | Giám tu | Chỉ đạo biên soạn nội dung thay mặt nhà vua | ||||
Tổng tài | Phụ trách việc biên soạn | |||||
Viết, biên tập và lưu trữ² | Toản tu | Soạn và sửa nội dung | ||||
Biên tu | Biên soạn | |||||
Khảo hiệu | Kiểm tra nội dung và sửa chữa (hiệu đính) | |||||
Đằng lục | Chép nội dung để chuyển cho thợ in | |||||
Bút thiếp thức | Phiên dịch và chép lại nội dung | |||||
Thư chưởng | Bảo quản tài liệu | |||||
Nhập lưu | Bảo quản tài liệu | |||||
¹ Giám tu và tổng tài sẽ chỉ đạo và chịu trách nhiệm về việc
biên soạn trước vua. Các vị này đa số đều kiêm nhiềm nhiều chức, nên có
mặt tại Quốc sử quán không thường xuyên. ² Trong số các vị này, trực tiếp biên soạn là các toản tu, biên tu, khảo hiệu. |
Hoạt động
Quốc sử quán trong suốt 125 năm hoạt động đã để lại rất nhiều công trình lịch sử địa lý quy mô, được biên soạn một cách chặt chẽ nhất theo phong cách viết sử Việt Nam kết hợp Trung Quốc. Số công trình có thể được chia thành các nhóm[1]:Địa chí
- Quốc chí:
- Hoàng Việt nhất thống địa dư chí của Lê Quang Định soạn năm 1806 nhưng chưa được in: nội dung chủ yếu về các trấn sở và hệ thống giao thông Việt Nam thời bấy giờ[2]
- Hoàng Việt địa dư chí của Phan Huy Chú in lần đầu năm 1833 thời Minh Mạng, viết về thay đổi về địa lý hành chính, người nổi tiếng, sản vật, nghề thủ công các địa phương Việt Nam[3].
- Đại Việt địa dư toàn biên (hay Phương Đình dư địa chí) do Nguyễn Văn Siêu và Bùi Quỹ soạn thời Tự Đức, in năm 1900 với phần lời tựa do Nguyễn Trọng Hợp đề. Tóm tắt danh sách chính sử Trung Quốc, lịch sử thay đổi địa lý lãnh thổ Việt Nam.
- Đại Nam nhất thống chí do Hoàng Hữu Xứng, Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình, Nguyễn Thuật, Hoàng Hữu Thường soạn thời Tự Đức. Viết về từng tỉnh trong cả Việt Nam và một số lãnh thổ kề cận bấy giờ.
- Đồng Khánh địa dư chí lược soạn từ 1886 đến 1886, nội dung lấy từ Đại Nam nhất thống chí và sắp xếp lại.
- Địa phương chí
- Bắc thành địa dư chí của Lê Chất và Nguyễn Văn Lý
- Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức
- Hải Dương địa dư và Hải Đông chí lược của Ngô Thời Nhậm
- Bắc Ninh tỉnh chí
- Hưng Yên nhất thống chí
- Hưng Hóa chí lược
- Sơn Tây tỉnh chí
- Nam Định tỉnh địa dư chí
- Hoan Châu phong thổ chí
- Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch
- Thanh Hóa tỉnh chí
- Quảng Nam tỉnh chí lược
- Cam Lộ phủ chí
Lịch sử, văn học, pháp luật
- Đại Nam thực lục (hai quyển là tiền biên và chính biên)
- Đại Nam liệt truyện
- Minh Mệnh chính yếu
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục
- Đồng Khánh Khải Định chính yếu
- Quốc triều sử toát yếu
- Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
- Khâm định tiễu bình lưỡng kỳ nghịch phỉ chính biên
- Minh Mệnh ngự chế văn
- Minh Mệnh ngự chế thi tập
- Ngự đề đồ hội thi tập
- Triệu Trị ngự chế thi
- Tự Đức ngự chế thi
- Tự Đức ngự chế văn
- Ngọc điệp Tôn phổ
Di sản và đánh giá
Các tư liệu lịch sử của Quốc sử quán được xem là một nguồn tư liệu đồ sộ. Đã được dịch và xuất bản ở nhiều nước bằng nhiều thứ tiếng. Là cơ sở quan trọng để nghiên cứu khoa học, xã hội và lịch sử Việt Nam dù có nhiều hạn chế về quan điểm. Hiện ở Việt Nam, nó vẫn được tiếp tục nghiên cứu và tái bản, và khai thác[1].Chú giải
- ^ a ă â b c d đ e Quốc sử quán triều Nguyễn: 125 năm xây dựng và phát triển hoạt động, NetCoDo của Việt Nam Net, dẫn lại của báo Thế Giới Mới, truy cập 20 tháng 9 năm 2008.
- ^ Lê Quang Định,Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí, Nhà xuất bản Thuận Hoá, năm 2005, phần lời tựa.
- ^ Hoàng Việt địa dư chí trên Bách khoa toàn thư Việt Nam
Xem thêm
Nguyễn Khắc Niêm
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm (阮克拈, 1889-1954) là một đại thần triều Nguyễn, nguyên Tham tri Bộ Hình, Phủ doãn Thừa Thiên, Quyền Tổng đốc Thanh Hóa.
Tiểu sử
- Nguyễn Khắc Niêm sinh năm 1889 tại làng Gôi Vị, nay là xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ Nguyễn Khắc Niêm đã thông minh tuấn tú hơn người.
- Năm 1906, ông thi đậu cử nhân, trường thi Nghệ An.
- Năm 1907, ông thi đậu đệ nhị giáp tiến sĩ (Hoàng giáp)[1], khoa thi đình Đinh Mùi, tại Huế.
- Khi thi đỗ đại khoa, được cùng các vị tiến sĩ đồng khoa triều kiến vua Thành Thái, nhà vua đề nghị mỗi vị hãy góp kế sách để phục hưng quốc gia, Nguyễn Khắc Niêm đã đọc 4 câu.
- Tôn tộc đại quy
- Tôn lộc đại nguy
- Tôn tài đại thịnh
- Tôn nịnh đại suy.
- (Trần Đại Vinh đã tạm dịch:
- Tôn trọng nòi giống ắt đại hòa hợp
- Tôn trọng bổng lộc ắt đại nguy nan
- Tôn trọng tài năng, ắt đại phồn thịnh
- Tôn trọng siểm nịnh, ắt đại suy vong.)
- Ông được bổ nhiệm làm Giám khảo khoa thi Hội năm 1910 ở Huế, thi Hương năm 1912 ở Bình Định. Năm 1920, ông được bổ nhiệm Đốc học Nghệ An, đảm trách việc tổ chức các trường học Pháp Việt ở Nghệ An.
- Sau đó ông được điều về kinh đô giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Tham tri Bộ Hình, hai lần giữ chức Phủ Doãn phủ Thừa Thiên (1936 và 1938), Tuần vũ tỉnh Khánh Hòa, Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu Cải lương hương ước ở Huế.
- Tháng 8/1941 là quyền Tổng đốc tỉnh Thanh Hóa.
- Tháng 2/1942, ông xin về hưu trước tuổi.
- Sau năm 1945,ông tích cực tham gia công tác tại địa phương từ Hội đồng nhân dân xã, ủy ban phòng vệ huyện Hương Sơn, Ban văn hóa tỉnh Hà Tĩnh, ủy viên chấp hành Mặt trận Liên Việt, kiêm Trưởng ban cứu trợ thương binh Liên khu 4.
- Năm 1952, ông được Chính phủ mời ra Việt Bắc họp hội nghị Liên Việt Trung ương, nhưng vì sức khỏe yếu không đi được.
- Trong cuộc cải cách ruộng đất, ông bị đấu tố, bắt giam và mất tại quê nhà năm 1954.
Gia đình
Các con của cụ đều là những người thành đạt, có công lớn với dân tộc Việt Nam.- Nguyễn Thị Vàng: Nguyên cán bộ Bệnh Viện Y Học Cổ Truyền Trung Ương.[cần dẫn nguồn]
- Nguyễn Khắc Viện: Bác sĩ y khoa, một nhà văn hóa lớn của Việt Nam.
- Nguyễn Thị Thiếu Anh: Nguyên cán bộ Bệnh Viện Bạch Mai.
- Nguyễn Khắc Dương: Bỏ dở luận án tiến sĩ thần học tại Đại học Sorbonne (Paris), về nước làm Quyền trưởng khoa Văn-Triết Viện Đại học Đà Lạt.[2][3][4]
- Nguyễn Khắc Phê: Nhà văn, Chủ tịch Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên-Huế, nguyên phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên-Huế.[5]
- Nguyễn Khắc Phi: Giáo sư văn học, giảng viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Vinh, nguyên Tổng biên tập Nhà xuất bản giáo dục.[6]
- Nguyễn Thị Phương Thảo: từng là Trưởng ban nghiên cứu và Ủy viên Ban Chấp hành trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam khóa V & khóa VI.
Tham khảo
- ^ Quốc triều khoa bảng lục
- ^ [1][[]][liên kết hỏng]
- ^ [2][[]][liên kết hỏng]
- ^ “Một người trí thức VN nhập đạo nói về cảm nghiệm "Đi tìm Giáo Hội"”. VietCatholic. 11 tháng 1 năm 2014.
- ^ [3]
- ^ [4]
Liên kết ngoài
Hoàng giáp
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hoàng giáp(chữ Hán: 黃甲)
là một loại (gọi là giáp) danh hiệu của học vị Tiến sĩ trong hệ thống
giáo dục Việt Nam thời xưa. Loại danh hiệu này được xác định trong kỳ thi Đình, còn gọi là tiến sĩ xuất thân (進士出身). Vì đứng thứ hai trong hệ thống các loại học vị tiến sĩ, trên đệ tam giáp, nhưng dưới đệ nhất giáp, tức tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) nên còn gọi là Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân.
Hoàng giáp (đệ nhị giáp) được quy định lần đầu tiên ỏ Việt Nam vào năm Kiến Trung thứ 8 (1232) đời vua Trần Thái Tông cùng với đệ nhất giáp (tam khôi) và đệ tam giáp (thái học sinh).[1]
Đến triều nhà Hậu Lê, tháng 8 âm lịch năm 1484 (niên hiệu Hồng Đức 15), Lê Thánh Tông phân định lại hạng tiến sĩ xuất thân cùng với hạng tiến sĩ cập đệ (đệ nhất giáp) và đồng tiến sĩ (đệ tam giáp). Người đề xuất việc phân hạng (giáp) các tiến sĩ nho học là thượng thư Bộ Lễ Quách Đình Bảo, nhân việc vua Lê Thánh Tông sai khắc bia tiến sĩ. Trước đó vào đầu nhà Hậu Lê chưa có phân 3 loại tiến sĩ kể trên, mà mới chỉ xếp danh sách các tiến sĩ nho học trong mỗi khoa thi thành 2 bảng: chính bảng và phụ bảng. Trong chính bảng từ thời nhà Trần có xếp 3 danh hiệu: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa ở 3 vị trí đầu tiên. Lê Thánh Tông chuẩn tấu của Quách Đình Bảo, đổi: tam khôi thành tiến sĩ cập đệ, các tiến sĩ còn lại trong chính bảng của mỗi khoa thi thành tiến sĩ xuất thân (hoàng giáp), còn loại tiến sĩ trong phụ bảng gọi là đồng tiến sĩ xuất thân.[2]
Đến nhà Nguyễn, triều đình thường bỏ không lấy hạng đệ nhất giáp, đặc biệt là Trạng nguyên, nên người đỗ hoàng giáp xếp trên cùng có thể coi là đình nguyên.
Loại này không chia bậc, chỉ xếp thứ tự, ai đỗ cao hơn được xếp ở trên. Khi bổ quan được lĩnh chức có hàm tòng thất phẩm.
Hoàng giáp (đệ nhị giáp) được quy định lần đầu tiên ỏ Việt Nam vào năm Kiến Trung thứ 8 (1232) đời vua Trần Thái Tông cùng với đệ nhất giáp (tam khôi) và đệ tam giáp (thái học sinh).[1]
Đến triều nhà Hậu Lê, tháng 8 âm lịch năm 1484 (niên hiệu Hồng Đức 15), Lê Thánh Tông phân định lại hạng tiến sĩ xuất thân cùng với hạng tiến sĩ cập đệ (đệ nhất giáp) và đồng tiến sĩ (đệ tam giáp). Người đề xuất việc phân hạng (giáp) các tiến sĩ nho học là thượng thư Bộ Lễ Quách Đình Bảo, nhân việc vua Lê Thánh Tông sai khắc bia tiến sĩ. Trước đó vào đầu nhà Hậu Lê chưa có phân 3 loại tiến sĩ kể trên, mà mới chỉ xếp danh sách các tiến sĩ nho học trong mỗi khoa thi thành 2 bảng: chính bảng và phụ bảng. Trong chính bảng từ thời nhà Trần có xếp 3 danh hiệu: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa ở 3 vị trí đầu tiên. Lê Thánh Tông chuẩn tấu của Quách Đình Bảo, đổi: tam khôi thành tiến sĩ cập đệ, các tiến sĩ còn lại trong chính bảng của mỗi khoa thi thành tiến sĩ xuất thân (hoàng giáp), còn loại tiến sĩ trong phụ bảng gọi là đồng tiến sĩ xuất thân.[2]
Đến nhà Nguyễn, triều đình thường bỏ không lấy hạng đệ nhất giáp, đặc biệt là Trạng nguyên, nên người đỗ hoàng giáp xếp trên cùng có thể coi là đình nguyên.
Loại này không chia bậc, chỉ xếp thứ tự, ai đỗ cao hơn được xếp ở trên. Khi bổ quan được lĩnh chức có hàm tòng thất phẩm.
Một số hoàng giáp nổi tiếng
Học Vị Tiến Sĩ đầu tiên được sử dụng ở đời nhà Trần[cần dẫn nguồn]- Nguyễn Trung Ngạn là người đỗ hoàng giáp đầu tiên khoa Đại tỷ năm 1304 khi mới 16 tuổi.
- Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh) (?-?), hoàng giáp năm Ất Mão (1375)
- Vũ Hữu (1437-1530), hoàng giáp năm Quý Mùi (1463)
- Quách Hữu Nghiêm (1442-1504), hoàng giáp năm Bính Tuất (1466)
- Nghiêm Ích Khiêm (1459-1499), hoàng giáp năm Canh Tuất (1490)
- Nguyễn Trù (1668-1738), hoàng giáp năm Đinh Sửu(1697)
- Bùi Huy Bích (1744-1818), hoàng giáp năm Canh Dần (1770)
- Bùi Dương Lịch (1757–1828) là nhà văn hóa lớn của Việt Nam thời Tây Sơn và nhà Nguyễn, hoàng giáp năm 1787.
- Phạm Văn Nghị (1805-1880), hoàng giáp năm Mậu Tuất (1838)
- Đỗ Huy Liêu (1844-1891), hoàng giáp năm Kỷ Mão (1879)
- Nguyễn Quang Bích (tức Ngô Quang Bích) (1832-1890) hoàng giáp năm Kỷ Tỵ (1869)
- Nguyễn Khuyến (1835-1909), hoàng giáp năm Tân Mùi (1871)
- Đào Nguyên Phổ (1861-1907), hoàng giáp năm Mậu Tuất(1898)
- Nguyễn Khắc Niêm (1888-1954), hoàng giáp năm Đinh Mùi(1907)
Xem thêm
Chú thích
Khoa bảng | ||
---|---|---|
Thi Hương | Thi Hội | Thi Đình |
Giải nguyên | Hội nguyên | Đình nguyên |
Hương cống Sinh đồ |
Thái học sinh Phó bảng |
Trạng nguyên Bảng nhãn Thám hoa Hoàng giáp Đồng tiến sĩ xuất thân |
Bài viết rất đầy đủ, cảm ơn bạn đã chia sẻ bài viết.
ReplyDelete------------------------------------------
Ms Nga - Kinh Doanh - SacoJet.vn
0938 172 672 - 090 262 1479 – 1900 63 6479
Chuyên Đặt vé máy bay VietNam Airlines đi Đà Nẵng uy tín tại TpHCM