ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM. Tôi đã có một ít bài viết nhỏ (Notes) về Nguyễn Du:
Đọc Bill Gate nhớ Nguyễn Du; Nguyễn Du nửa đêm đọc lại; Nguyễn Du và những câu thơ tài hoa;
Tâm sự Nguyễn Du qua Đối tửu;
Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ;
Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ;
Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ. Trước đối tửu, thầm thương bậc anh hùng. “
Ba trăm năm nữa chốc mòng. Biết ai thiên hạ khóc cùng Tố Như”. Tôi đã từng trăn trở
Nguyễn Du nửa đêm đọc lại; sau bài viết “
Một khám phá độc đáo về Truyện Kiều”
của Giáo sư Nguyễn Lân Dũng về cuốn sách “Thử tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du
qua Truyện Kiều” của GS. NGND Ngô Quốc Quýnh (Đại học Quốc gia Hà Nội).
Trong cuốn sách này, tác giả đã cho rằng Nguyễn Du gửi gắm tâm sự của
mình qua Truyện Kiều mà Từ Hải chính là Nguyễn Huệ, Kim Trọng là Lê
Chiêu Thống và nàng Kiều là Nguyễn Du.
Gần đây, tôi đọc được một số bài viết mới khá hay: Nguyễn Du – Nguyễn
Công Trứ; Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương; Tết, đọc lại thơ Nguyễn Du; Đọc
Nguyễn Du, nhớ Nguyễn Khuyến, Khóc Tố Như , soi sáng thêm những góc
nhìn mới. Tuy vậy, một vị Thiền sư đã gợi ý cho tôi phải tìm hiểu sâu thêm những uẩn khúc chưa rõ như :
Nguyễn
Du là người thế nào? Nguyễn Du Bắc hành tạp lục; Nguyễn Du với Hồ Xuân
Hương; Nguyễn Du và Kinh Kim Cương; Nguyễn Du so tài Nguyễn Huệ; Nguyễn
Du và Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Du tri kỷ, tri âm; Tố Như sau ba trăm
năm; Nguyễn Du viếng Kỳ Lân mộ; Hoành Sơn những bài thơ cổ; Hồng Lam
vằng vặc sao Khuê. May thay lần này tôi được tiếp xúc với tư liệu quý của Phạm Trọng Chánh:
Đọc sách Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi đăng trên
Văn hóa Nghệ An đã soi sáng thêm nhiều điều nghi vấn.
Nhà nghiên cứu Phạm Trọng Chánh nói những lời thật cảm khái : “
Trong
tình hình đọc sách hiện tại trong nước và hải ngoại, mỗi người Việt Nam
đọc không đến một quyển sách một năm, các nhà xuất bản tại hải ngoại
chỉ sống nhờ sự hy sinh của tác giả, tự viết tự bỏ tiền in, không kể gì
lời lỗ. Sách gửi đi các nơi không hy vọng gì thu tiền lại. Trong nước
sách in được 1500 quyển như Nguyễn Du trên đường gió bụi
anh Hoàng Khôi là thuộc loại khá. Đáng cho chúng ta khuyến khích. Phải
chăng vì thiếu sách hay, các nhà văn ngày nay không đủ sức hấp dẫn lôi
kéo người đọc chăng. Nghĩ lại ngày xưa thời Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới,
những năm 1930-1940 mỗi năm người đậu Tú Tài chỉ vài chục người, người
biết chữ quốc ngữ có là bao nhiêu trên 25 triệu dân thế mà sách đã tạo
ra những trào lưu văn học lớn mạnh. Ngày nay chúng ta có 90 triệu dân
trong nước và 4 triệu người Việt hải ngoại, mà tình hình sách vở còn
thua các nước nhược tiểu, nghĩ thật đáng buồn. Chúng ta không nâng cao
được dân trí, mà dân trí lại thụt lùi. Được một nhà văn như anh Hoàng
Khôi, hy sinh thức đêm thức hôm để viết sách, để mua vui một vài trống
canh, tôi mừng và mong có nhiều người như anh Hoàng Khôi. Đừng để các
thế hệ mai sau không còn biết viết văn, biết đọc mà chỉ còn biết bấm mấy
câu vớ vẫn trên điện thoại di động."
Tôi từng tâm đắc với
Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ nơi “
bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe”
càng cho thấy nhân cách kẻ sĩ và sự cảm thông của ông đối với Liễu Hạ
Huê sâu sắc đến dường nào. Người hiền thực ra đời nào cũng có, thời thế
nhiễu loạn, chẳng qua vàng lầm trong cát đấy thôi. Nguyễn Du là con quan
tướng quốc Nguyễn Nhiễm cựu thần nhà Lê và mẹ ông là người phụ nữ tài
sắc, vợ lẽ nhà quan, gặp lúc thế nước động loạn, chúa Trịnh, nhà Tây
Sơn, nhà Nguyễn đều có ý riêng. Ông lớn lên trong cảnh lận đận không
nhà, có tài mà không thể cậy. Ông là một đại sĩ phu tài năng trác tuyệt
nhưng chỉ làm một viên quan thường triều Nguyễn mà vua vừa dùng, vừa tìm
cách kiềm chế như đối với Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Chú. Ông vì giỏi
nên được vua Nguyễn cử đi sứ Tàu mà thôi. Thơ Nguyễn Du vì vậy kín đáo
và sâu sắc hiếm thấy (Ảnh: Mộ Nguyễn Du ở Hà Tĩnh). Để thấu hiểu những
giá trị nhân văn đích thực, rất cần những khoảng lặng để đối diện với
chính mình. Hôm trước tôi đã có dịp cùng với những người bạn quý thảo
luận về hành vi ứng xử của Liễu Hạ Huệ gần gũi với một người nữ mà ông
không mang tiếng dâm tà. Nhờ việc tra cứu, đọc đi đọc lại nhiều lần bài
thơ ‘Liễu Hạ Huệ mộ’ của cụ Nguyễn Du, tôi chợt sững người, nhận thức
thêm được những nỗi niềm, của cụ Nguyễn lấp lánh sau những con chữ …
Tôi đọc cuốn sách “
Nguyễn Du” của nhà giáo Nguyễn Thế Quang “
Của tin còn một chút này làm ghi”
không dưới hai mươi lần (Trang sách Nguyễn Du với lời đề tặng của tác
giả Nguyễn Thế Quang, ảnh Hoàng Kim), và sực thấm hiểu vì sao Nguyễn Du
đọc Kinh Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn trên nghìn lần cũng như chợt
hiểu vì sao Hồ Chí Minh “
sao vàng năm cánh mộng hồn quanh“. Sáu cuốn sách quý góp phần giải mã Nguyễn Du và
Truyện Kiều theo tôi đó là: Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du,”Hoàng Lê
Nhất Thống Chí” của Ngô Gia Văn Phái, “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng
Kim, “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều” 1989 trang của Lê Xuân
Lít, “Nguyễn Du” 416 trang của Nguyễn Thế Quang, “Thả một bè lau”,
Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán, 471 trang của Nhất Hạnh.
Dẫu vậy
tôi vẫn hồ nghi nhiều điều, chưa đủ tư liệu trao đổi với các giáo sư
Nguyễn Lân Dũng, Ngô Quốc Quýnh, nhà giáo Nguyễn Thế Quang, nhà nghiên
cứu Bulukhin Nguyễn Quốc Toàn và còn nợ Ví Dặm Ân Tình, Quỳnh Trâm,
Huy Việt … những lời bàn luận.
Hôm nay tôi thông tỏ được một phần nhờ phản biện sâu sắc và các dẫn liệu của nhà
nghiên cứu Phạm Trọng Chánh. Ông là người bôn ba hải ngoại đã hiểu tác
phẩm
Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi một
cách sâu sắc hiếm thấy, chân thành, đức độ và khích lệ với một triết lý dạy và học mẫu mực. “
Nghiên cứu không phải là
chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người
trước để được nổi danh hơn mà người đi sau nối tiếp người trước, làm
giải quyết những nghi vấn còn tồn động, làm cho việc nghiên cứu ngày
càng phát triển, sáng tỏ“.
Tôi mừng không ngủ được trước tư liệu quý này và xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Hoàng Kim
Xem tiếp:
ĐỌC SÁCH “NGUYỄN DU TRÊN ĐƯỜNG GIÓ BỤI” CỦA HOÀNG KHÔI
Phạm Trọng Chánh
Nguồn
Văn hóa Nghệ An thứ bảy, 09 tháng 11 2013 06:12
Có gì vui hơn, khi những thành quả nghiên cứu văn học của mình được
bè bạn Hội Kiều Học trong nước hưởng ứng viết thành tiểu thuyết. Nhận
được sách anh Hoàng Khôi:
Nguyễn Du trên đường gió bụi với lời đề tặng : “
Thân
tặng anh Phạm Trọng Chánh. Cám ơn anh vì những bài viết của anh đã gợi ý
nhiều và tạo cảm hứng cho tôi hoàn thiện cuốn sách này “. Người
viết vội vàng viết bài về quyển sách anh gửi tặng, giúp anh “nhặt sạn”
những sơ sót trong lúc say sưa viết. Tiếc là không được đọc bản thảo lúc
sách chưa ra đời để công trình anh được hoàn hảo hơn, thôi thì góp ý
kiến để lần tái bản anh xem xét lại. Bài viết cũng trả lời các thắc mắc
nhiều bạn khi thấy dàn bài sách anh Hoàng Khôi trùng hợp với tên tựa các
bài tôi đã viết đăng trên nhiều site trong nước và hải ngoại, gửi email
hỏi tôi, mong rằng bài viết này giải toả các nghi ngờ về sách anh Hoàng
Khôi.
Người nghiên cứu văn học sau bao năm tìm kiếm giải quyết những thắc
mắc của các học giả đi trước : Tại sao Nguyễn Du có những bài thơ làm
ở Trường An, Hàng Châu không nằm trên đường đi sứ năm 1813 ? Tại sao
trong Thanh Hiên thi tập có các địa danh : Liễu Cao Lâm, Trường An,
Giang Hán, Giang Bắc, Giang Nam, Nam Đài, Long Thủy, những địa danh ấy ở
đâu ? Những người đi trước không nghĩ tới chỉ dịch phớt qua hay bỏ
quên ! Nhân vật Nguyễn Đại Lang trong Thanh Hiên thi tập là ai ?
Nguyễn Du trong thơ tiễn biệt có nói đã cùng kết nghĩa sinh tử, cùng tồn
vong, chia tay tại đâu mà hẹn gặp lại tại Trung Châu ? Trung Châu là Hà
Nội hay ở Trung Quốc. Nguyễn Du từ năm 1783 làm Chánh Thủ Hiệu Quân
Hùng Hậu hiệu tại Thái Nguyên. Sách sử các tài liệu rãi rác : Nguyễn
Khản làm Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa, Hoàng Lê
Nhất Thống Chí có nói đến Cai Gia, tay giặc già, thuộc hạ của Nguyễn
Khản nắm binh quyền tại Thái Nguyên. Lê Quý Kỷ Sự của Nguyễn Thu có nói
đến cuộc khởi nghĩa tại Tư Nông của cựu Trấn Thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng
Tiến, tước Quản Vũ Hầu, bị tướng Tây Sơn bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm,
Nhậm trọng khí khái dụ hàng, lại tha bổng cho phép muốn đi đâu thì đi.
Gom lại các tài liệu, tôi tìm được một nhân vật, vừa là thầy, là anh kết
nghĩa Nguyễn Du và cũng là Từ Hải, mở cách cửa Nguyễn Du đã vào bước
đường đi giang hồ khắp Trung Quốc thời thanh niên.
Những chi tiết rành rành trong Thanh Hiên thi tập có những bài tả
cảnh tuyết, núi non trùng điệp, lá vàng, trưởng giả ăn mặc còn theo nhà
Hán (không theo nhà Thanh để tóc bính đuôi sam, áo quần Mãn Châu), dân
chúng theo lịch nhà Tần, xử dụng nhạc cụ “tù và” ? Nguyễn Du có hư cấu, ở
Quỳnh Hải, Hồng Lĩnh theo sách vở mà tưởng tượng làm thơ, hay thơ chữ
Hán Nguyễn Du là những trang nhật ký ?
Tại sao Nguyễn Du có những câu thơ kỳ lạ : Tôi đọc kinh Kim Cương
nghìn lượt ?. Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế? Giang Bắc, Giang Nam cái
túi không? Nguyễn Du làm gì mà đọc kinh Kim Cương trong ba năm, đội mũ
vàng nhà sư đi muôn dậm (khoảng 5000 km), làm gì không tiền mà đi hết
các sông phía bắc đến sông phía nam Dương Tử Giang ? Nguyễn Du ở đâu mà
cách Trường An ngàn dậm về phía Nam ?
Theo Nguyễn Hành, cháu Nguyễn Du, có viết ông có một cuộc đời giang hồ như cuộc đời làm quan : Giang hồ long miếu hai điều đủ, Thi họa cầm thư bốn nghệ tinh.
Theo gia phả từ năm 1786 đến 1796 Nguyễn Du về quê vợ tại Quỳnh Hải,
Thái Bình hợp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn khởi nghĩa chống Tây Sơn. Nhưng
điều này không đúng vì từ năm 1788 Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan Tây Sơn
và đi sứ trong đoàn 158 người năm 1790. Đoàn Nguyễn Tuấn có hai bài thơ
viết tặng một văn nhân họ Nguyễn, gặp tại Hoàng Châu, Trung Quốc vào
mùa thu bàn luận về văn chương sôi nổi chuyện gì ?, Đoàn Nguyễn Tuấn
phải lên Nhiệt Hà nơi vua Càn Long đang nghỉ mát ? Văn nhân họNguyễn đi
xe song mã về Nam và hẹn gặp lại tại nước nhà vào mùa xuân. Trên đường
đi cớ gì mà Đoàn lại viết một bài thơ Vô Đề về hồng nhan đa truân khi
gặp một ca nhi hát cho sứ đoàn tại bến sông Hán?.
Mang những thắc mắc bao nhiêu năm, năm 2009, tôi đi Trung Quốc qua
những thành phố Nguyễn Du đi sứ và các địa danh trong thơ, tôi nghiên
cứu, tham khảo sách vở từng con sông, từng hồ, từng thắng cảnh Nguyễn Du
đã đi qua, tôi dịch lại toàn bộ thơ chữ Hán Nguyễn Du, do không nghĩ
đến Nguyễn Du có một thời gian đi giang hồ tại Trung Quốc thời trẻ,
những địa danh bị người đi trước không hiểu nên bỏ qua hay dịch sai và
tôi hoàn thành quyển Nguyễn Du mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Khuê Văn Paris Xb 2011. Và gần đây tôi viết thành nhiều bài nhỏ để phổ biến trên các báo điện tử.
Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải
chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà người đi
sau nối tiếp người trước , làm giải quyết những nghi vấn còn tồn động,
làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ. Điều may mắn
trong nghiên cứu về Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương tôi có dịp gặp gỡ bàn bạc
với Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn.
Những thắc mắc về Nguyễn Du tôi đã từng bàn với Giáo sư Hoàng Xuân
Hãn, từ những năm 1980 thuở còn thanh niên trong những lần tôi về nghỉ
hè hàng tháng trời tại dã thự Cam Tuyền, tại Trouville bờ biển
Normandie, Giáo sư khuyến khích, chỉ dẫn tôi những điều giáo sư nghi ngờ
và chưa tìm ra câu giải đáp.
Tôi mang nặng những lời hướng dẫn của giáo
sư suốt mấy mươi năm, nên đọc lại, dịch lại từng câu từng chữ thơ chữ
Hán, chữ Nôm Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du. Ở Paris mà nghiên cứu Văn Học
Việt Nam quả thật là chuyện gàn, vì ban ngày nói tiếng Pháp, làm ăn sinh
sống bằng tiếng Pháp, mà ban đêm cứ thao thức ngồi viết bằng tiếng
Việt, dịch thơ tiếng Việt chữ Hán, chữ Nôm. Được tiếp xúc với kho tàng
văn hóa Hán Nôm lưu trữ tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Paris, di sản cha
ông mình nhiều quá, mà người nghiên cứu lác đác như lá mùa thu, vì việc
làm chẳng ai trả lương, chỉ để tiêu khiển. Ngày xưa, tôi tò mò hỏi giáo
sư Hoàng Xuân Hãn : Vì sao Bác tốt nghiệp trường Bách Khoa Paris, tốt
nghiệp Kỹ sư Hầm Mỏ, Thạc Sĩ Toán mà lại dành cả đời đi nghiên cứu văn
chương Việt Nam ? Bác trả lời : “Việc ấy các anh em trẻ có nhiều sẽ
làm giỏi hơn bác, nhưng kho tàng văn học Việt Nam nếu không ai làm, di
sản tổ tiên sẽ mất đi rất nhiều“. Rồi từ lúc, ngồi trên ghế trường
Bách Khoa Paris, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã viết tự điển danh từ Khoa Học
bằng tiếng Việt, đặt nền tảng cho việc giảng dạy tiếng Việt, chỉ một
năm làm Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục và Mỹ Thuật, giáo sư đã đặt nền tảng cho
chương trình giảng dạy bằng tiếng Việt còn tồn tại cho đến ngày nay.
Trong tiếng súng chiến tranh Pháp Việt, giáo sư Dương Quảng Hàm lao vào
cứu thư viện của mình và bị chết cháy. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn vẫn tiếp
tục đi mua hàng gánh sách vở các đại gia bị con cháu đem bán làm giấy
bổi, rồi mang nó ra xa nơi chiến tranh ngồi tiếp tục nghiên cứu, chẳng
màng đến danh lợi. Bác Hãn viết sách cả đời, công sức như cả một Viện
Văn Học nhưng không hề hưởng được một đồng nào do sách vở mang lại. Với
địa vị, bằng cấp tại Pháp, Bác Hãn có thể trở nên giàu có, nhưng Bác
biết dừng lại khi đã có đầy đủ và dành thì giờ nghiên cứu di sản tổ
tiên.
Tôi vốn nặng nợ với nghiệp văn chương, thuở học trung học đã làm thơ
viết báo, nhiều khi tự nhủ lòng : Trang Tích xưa khi bệnh mới rên bằng
tiếng Việt, chứ tôi đi du học từ năm 19 tuổi, mà cứ rên bằng tiếng Việt
suốt hơn 43 năm. Thôi thì như Tú Xương : Một chè, một rượu, một đàn bà..
mình thì chẳng rượu chè, cờ bạc chỉ mê có cô Hồ Xuân Hương và cô Kiều.
Công trình Nguyễn Du, mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương
sau khi hoàn thành từ Paris năm 2011, tôi gửi sang Moscou tặng Giáo sư
Nguyễn Tài Cẩn trong những ngày cuối đời, giáo sư cho biết bị phong thấp
tê liệt cả nửa người, chỉ còn một tay gõ chữ, bao ngày tháng trông đợi,
thường xuyên viết Email hỏi thăm khuyến khích, không có quyển Hoàng Lê
Nhất Thống Chí tại Moscou, Giáo sư nhờ môn sinh từ trong nước gửi qua,
cầm quyển sách trong tay, giáo sư đánh Email hỏi gấp : Cai Gia ở trang
mấy, anh nói gấp cho tôi biết, giáo sư rất vui khi đọc được những khám
phá mới của tôi về Nguyễn Du, nhất là về Cai Gia Nguyễn Đại Lang sẽ mở
ra cánh cửa về cuộc đời giang hồ của Nguyễn Du và Giáo sư vui vẻ nói
rằng khám phá này rằng “sẽ làm mưa làm gió”… không ngờ đây là quyển
sách cuối cùng Giáo sư đọc trước khi nhắm mắt lìa đời.
Được Giáo Sư Nguyễn Văn Hoàn, vốn đã quen biết từng sang chơi Paris
hơn 30 năm, nay là Chủ Tịch Hội Kiều Học, mời tham gia Hội Kiều Học vừa
mới thành lập, nay được anh Vũ Ngọc Khôi, một hội viên Kiều Học viết
chuyện Mười năm gió bụi của Nguyễn Du thành tiểu thuyết còn gì vui hơn.
Hy vọng có một đạo diễn tài ba, một nhà sản xuất phim, một nhà viết kịch
bản phim… sẽ có cảm hứng làm phim truyện nhiều tập về Nguyễn Du – Hồ
Xuân Hương chắc chắn sẽ ăn đứt các bộ phim Trung Quốc – Hàn Quốc, sẽ
phục hưng văn hóa Việt đánh bạt được các ảnh hưởng văn hóa tình cảm lẫm
cẩm, giúp cho giới trẻ Việt Nam biết lịch sử Việt Nam nhiều hơn là sử
Trung Quốc, Hàn Quốc. Hàn Quốc đã làm được bộ phim Xuân Hương, một
truyện thơ hàng đầu của Triều Tiên, còn Việt Nam chờ đến bao giờ ?
Mơ ước nhiều, nhưng trước tiên đề nghị với anh Hoàng Khôi, xây dựng
lại quyển tiếu thuyết hoàn hảo hơn, và mắc các sự kiện trên chiếc đinh
lịch sử vững chắc.
Trước tiên, để đóng những chiếc đinh sự kiện vào lịch sử, cần tóm
lược các sai lầm năm tháng trong Thanh Hiên thi tập, và mười năm gió
bụi. Thời gian các tài liệu cũ dựa theo gia phả cho rằng Nguyễn Du theo
vua Lê Chiêu Thống không kịp về ẩn lánh quê vợ ở Quỳnh Hải, hợp cùng
Đoàn Nguyễn Tuấn chống Tây Sơn 1786-1796 và từ 1796-1802 là thời kỳ dưới
chân núi Hồng, Vợ chết năm 1796, Nguyễn Du cõng con Nguyễn Tứ về Hà
Tĩnh, làm Hồng Sơn Liệp Hộ. Năm 1802 Nguyễn Du đón đường vua Gia Long
tại Hà Tĩnh dâng sớ và được đưa ra Bắc phong làm Tri huyện Phù Dung trấn
Sơn Nam.
Cách chia này không đúng vì có các mâu thuẫn : Ngược lại Đoàn Nguyễn
Tuấn ra làm quan Tây Sơn. Bài thơ Quỳnh Hải Nguyên tiêu : Nguyễn Du
hạnh phúc bên vợ : Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên, Trăng sáng đầu xuân tỏa ngập tràn,
và mình đã trải qua chân trời góc biển đến 30 tuổi. Các tài liệu cũ
không biết vợ Nguyễn Du tên gì, không biết năm sinh, làm sao biết năm
mất ? Tại Hồng Lĩnh, Nguyễn Du bị tù, Trấn thủ Nguyễn Văn Thận giữ vững
Hà Tĩnh cho đến năm 1802, Nguyễn Du không thể chiêu tập thủ hạ và không
thể có lương thực, bò, ngựa để dâng vua Gia Long. Người đã làm quan được
mời ra (cùng Nguyễn Thiếp) năm 1802 và đi theo vua Gia Long từ Phú Xuân
ra Bắc là Nguyễn Nể chứ không phải Nguyễn Du. Bài thơ Chí Hiên tặng của
Nguyễn Du lưu trong Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương, có hai câu : Ra Bắc phen này mong nổi việc, Vào Nam ngẩm trước cũng hoài công. Chứng tỏ Nguyễn Du không tìm được ai ủng hộ mình tại Hà Tĩnh (Tụ đầu nan đắc thường thanh mục – Họp bạn khó tìm người mắt biếc) Hà Tĩnh trải qua cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, làng Tiên Điền bị làm cỏ, không ai còn muốn phiêu lưu chống Tây Sơn, (Tiếu đề tuẫn tục can qua tế – Khóc cười thời loạn theo trần thế. Tạp thi II).
Nguyễn Du không thể ở lại dạy học vì người bạn thân là Thực Đình dạy
học cũng không sống nổi. Cái tên Thực Đình tự cười mình, nói lên số phận
chỉ ăn no khi có đám tiệc ở đình làng. Nguyễn Du thất bại, bị tù tại Hà
Tĩnh, mới ra trở lại Thăng Long, thì Hồ Xuân Hương đã đi lấy chồng thầy
Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du về Quỳnh Hải cưới vợ Đoàn Nguyễn
Thị Huệ, do hai ông anh Nguyễn Nể , Đoàn Nguyễn Tuấn thu xếp, năm ấy
Nguyễn Du 30 tuổi. Tại Quỳnh Hải, Nguyễn Du dạy học văn võ, chiêu tập
thủ hạ, hoàn tất Truyện Kiều, làm ăn khấm khá mới có bò ngựa lương thực
dâng vua Gia Long. Từ Quỳnh Hải, Nguyễn Du dẫn thủ hạ đi không xa đến
Phù Dung cùng trấn Sơn Nam, thì gặp vua Gia Long, vua phong ngay làm Tri
huyện tại đây cho nên có danh hiệu là Phi Tử. Nguyễn Nể cũng được vua
Gia Long để lại Bắc Hà giúp Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành các nghi lễ cho
sứ đoàn do Binh Bộ Thượng thư Lê Quang Định làm Chánh sứ xin nhà Thanh
phong vương và đổi quốc hiệu là Nam Việt, nhưng không giữ chức vụ gì.
Nguyễn Nể không bị Đặng Trần Thường đem ra Văn Miếu đánh đòn như Ngô
Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Nguyễn An Lịch.. nhưng năm 1805 về Hà Tĩnh thì
bị tri phủ Trần Văn Chiêu tuy bức, ông uất ức mà chết. Nguyễn Du vợ
mất năm 1804 để lại một con Nguyễn Tứ.
NIÊN BIỂU NGUYỄN DU
1766. Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tính ra dương lịch
là ngày 3-1-1766, mới đúng. (Các tài liệu cũ đều lầm lẫn khi viết Nguyễn
Du sinh năm 1765).
1771 Cha là Nguyễn Nghiễm xin về hưu trí sĩ, được gia thăng chức Đại
Tư Đồ. Chúa Trịnh cấp cho xe bồ, ngựa tứ và thuyền hãi mã đưa về làng.
Nguyễn Du theo cha về. Nguyễn Nghiễm lại được gọi ra làm quan Tham Tụng.
1774. Nguyễn Nghiễm được sung chức Tả Tướng cùng Hoàng Ngũ Phúc đánh Chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
1776 Nguyễn Nghiễm bị nhiễm bệnh dịch cùng hàng ngàn quân sĩ, đưa về
quê dưỡng bệnh và mất tại Hà Tĩnh 7 tháng 11 Ất Mùi (7-1-1976). Được
truy tặng tước Huân dụ Đô hiến đại vương, Thượng đẳng phúc thần.
1778 Bà Trần thị Tần (1740-1778) mẹ Nguyễn Du qua đời ngày 20-7-1978.
1780 Trong vụ án Canh Tý. Anh cả Nguyễn Khản (1734-1786) thầy dạy
Trịnh Tông bị khép tội mưu loạn cùng Trịnh Tông, được tha chết nhưng bãi
chức, giam ở nhà Châu Quận công. Nguyễn Du về Tiên Điền học với chú
Nguyễn Trọng.
1782. Chúa Trịnh Sâm mất, Trịnh Tông nối ngôi Chúa, cử Nguyễn Khản làm Thượng Thư bộ Lại, tước Toản Quận công.
1783 Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, Nam Định đậu tam trường.
Nguyễn Khản thăng Thiếu Bảo, cuối năm thăng Tham Tụng kiêm trấn thủ Hưng
Hóa, Thái Nguyên. Cử Nguyễn Du làm Chánh Thủ Hiệu quân Hùng Hậu Hiệu
cai quản đội quân tinh nhuệ nhất Thái Nguyên. Cai Gia Nguyễn Đăng Tiến
tước Quản Vũ Hầu vốn là tay giặc già, phản Thanh phục Minh Trung Quốc,
gốc người Việt Đông, là tân khách (thủ hạ) dưới trướng, thầy dạy võ cho
Nguyễn Du và các anh em được giao quyền Trấn thủ Thái Nguyên, nơi có
nhiều người Trung Quốc sang khai mỏ bạc. Nguyễn Nể(1761-1805) đỗ tứ
trường trường thi Hương Phụng Thiên, Hà Nội, Nguyễn Khản phong làm Cai
quản đội quân Phấn Nhất trong phủ Chúa.
1784 Nhân vụ 7 kiêu binh bị nhà chúa giết vì bữa tiệc vua Lê đãi kiêu
binh có công phò Hoàng Tự Tôn Lê Duy Kỳ từ trong tù ra, kiêu binh nổi
loạn đốt phá dinh thự Bích Câu. Nguyễn Khản chạy trốn lên Sơn Tây với em
Nguyễn Điều (1745-1786), trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Nể phụ tá làm Hiệp
tán Nhung vụ,họ toan hợp quân các trấn về đánh kiêu binh, nhưng kiêu
binh giữ chặt chúa Trịnh Tông nên âm mưu bất thành. Kiêu binh áp lực bãi
chức Nguyễn Khản và giáng chức Nguyễn Điều, hai người về Hà Tĩnh.
Nguyễn Điều về huyện Thanh Chương lập nhà ở đấy, khi nghe nhà Trịnh mất,
ông uất ức mà chết năm 1786.
1786 Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn Khản từ Hà Tỉnh theo ghe mành ra Bắc
giúp chúa Trịnh chủ trương đóng quân theo lối vẩy sộp (theo Lê Quý Kỷ
sự) , nhưng kiêu binh vu cáo ông rước giặc Tây Sơn về. Nguyễn Khản phải
bỏ chạy, ông mất trong hoàn cảnh đó, thi hài được đưa về an táng tại Hà
Tĩnh.
1787 Nguyễn Du, Nguyễn Quýnh cùng Cai Gia Nguyễn Đăng Tiến, quyền
trấn thủ Thái Nguyên khởi nghĩa tại Tư Nông thất bại, bị bắt và cùng
được Vũ Văn Nhậm tha chết. Họ đi sang Vân Nam. Nguyễn Quýnh quay trở về
Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi, dinh thự
và làng Tiên Điền bị đốt sạch.
1787. Đến Vân Nam, Nguyễn Du bị bệnh ba tháng mùa xuân. Hết bệnh, họ
đi Liễu Châu và chia tay, Nguyễn Đại Lang về thăm quê nhà vùng Quế Lâm,
cao sơn lưu thủy. Nguyễn Du đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc trong áo mũ
nhà sư mang danh Chí Hiên, từ Quảng Tây theo thuyền đi dọc sông và Hồ
Động Đình đến Hán Khẩu, rồi theo sông Hán rồi lên Trường An viết bài
Dương Quý Phi, Bùi Tấn Công mộ, Phân Kinh thạch đài, rồi lại theo kinh
Đại Vận Hà đến Hàng Châu.
1790 Tại Hàng Châu Nguyễn Du cư ngụ tại chùa Hổ Pháo bên Tây Hồ, nơi
Từ Hải tức Minh Sơn Hoà thượng từng tu hành, trước khi đi giang hồ thành
cướp biển. Tại đây Nguyễn Du có được bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân. Gặp lại Nguyễn Đại Lang tại miếu Nhạc Phi cũng bên cạnh
Tây Hồ, (nơi đây Nguyễn Du viết 5 bài thơ, một bài Nhạc Phi, hai bài Tần
Cối và hai bài Vương Thị), sau đó hai người đi Yên Kinh (gặp vua Lê
Chiêu Thống), trở về Hoàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn sứ đoàn Tây Sơn
tại một lữ quán, gặp bạn văn chương, Nguyễn Du bàn chuyện sôi nổi về
Hồng nhan đa truân. Đoàn Nguyễn Tuấn viết hai bài thơ tặng văn nhân họ
Nguyễn. Nguyễn Du về Long Châu và trở về Thăng Long.
1790-1793. Nguyễn Du về ở với anh Nguyễn Nể, đang làm quan Tây Sơn
tại Bắc Thành giữ chức Hàn Lâm thị thư, sung chức Phó sứ tuế công, năm
1791 đi sứ về, đã xây dựng lại một phần dinh thự Bích Câu, tại đây
Nguyễn Du nghe cô Cầm, người nhạc nữ cũ cung vua Lê đánh đàn. Nhưng
Nguyễn Du thường ở gác tía, nơi câu cá anh Nguyễn Khản cạnh đền Khán
Xuân. Tại đây Nguyễn Du quen biết Xuân Hương Hồ Phi Mai, mối tình ba
năm.
1794. Nguyễn Nể được triệu về Phú Xuân thăng chức Đông Các Đại Học
Sĩ, gia tăng Thái Sử Tả Nghị Lang, chức vụ thầy dạy vua Cảnh Thịnh.
Nguyễn Nể giao phó cho hai em Nguyễn Du và Nguyễn Ức tiền bạc để về Tiên
Điền xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền. Về Phú Xuân, quyền hành
nhà Tây Sơn trong tay Thái sư Bùi Đắc Tuyên, cậu vua Cảnh Thịnh, Thái sư
đày Quân sư Trần Văn Kỷ ra Hoàng Giang làm lính thú. 1795 Nguyễn Nể
xin ra Quy Nhơn vừa mới lấy được từ vua Trung Ương Nguyễn Nhạc, trấn
đóng để tránh xa xung đột triều đình, cuối năm được cử làm Chánh Sứ
(Hành Khánh Sứ) lễ bộ mừng lễ truyền ngôi vua Càn Long cho vua Gia
Khánh.
1794-1796. Nguyễn Du về Tiên Điền, bị bệnh ba tháng cuối năm. Ở nhà
cạnh Giang Đình bến sông để tiếp nhận mua gỗ đá, vật liệu chở bằng
thuyền. Nguyễn Ức vẽ kiểu và chỉ huy thợ xây cất. Nguyễn Du trao đổi
thơ với Hồ Xuân Hương. Nguyễn Du đi săn làm Hồng Sơn liệp hộ. Nguyễn Du
có vào Phú Xuân thăm anh và nhận một món tiền khác.
1796. Công việc xây dựng tạm xong. Nguyễn Du làm Nam Hải Điếu đồ,
người đi câu biển Nam Hải toan theo thuyền về Nam. Lúc này chúa Nguyễn
Ánh đã đánh chiếm đến thành Diên Khánh (Nha Trang). Nguyễn Du bị quận
công Nguyễn Văn Thận trấn thủ Hà Tĩnh bắt giam mười tuần. Nguyễn Du trở
ra Thăng Long thì hay tin Hồ Xuân Hương đã đi lấy chồng thầy Lang xóm
Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du viết hai bài thơ ký tên Chí Hiên oán trách
nàng tệ bạc. Hồ Xuân Hương vẫn trân trọng chép trong Lưu Hương Ký.
Nguyễn Du sang nhà Đoàn Nguyễn Tuấn, anh Nguyễn Nể cũng vừa đi sứ về
được thăng chức Hữu Trung Thư, chức vụ quân sư cho vua Cảnh Thịnh, trước
biến loạn triều đình Nguyễn Nể xin ra xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô ở
Nghệ An thay Trần Quang Diệu.
1797-1801 Nguyễn Nể cùng Đoàn Nguyễn Tuấn tác thành hôn nhân cho
Nguyễn Du cùng Đoàn Nguyễn Thị Huệ và giao cho gia trang ở Quỳnh Hải. Từ
đây Nguyễn Du có vợ con sống hạnh phúc chấm dứt cuộc đời gió bụi.
Nguyễn Du hoàn tất Truyện Kiều, dạy văn, dạy võ chiêu tập thủ hạ tại
Quỳnh Hải.
1801 Nguyễn Nể được lệnh vua Cảnh Thịnh đưa La Sơn Phu Tử Nguyễn
Thiếp vào chầu, còn ở Phú Xuân thì kinh đô thất thủ. Nguyễn Nể và La Sơn
Phu Tử được vua Gia Long gọi ra. Nguyễn Nể dâng sớ được trọng dụng khen
thưởng và cho theo xe vua ra Bắc chỉ dẫn nghi lễ cho sứ đoàn ngoại giao
Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức đi sứ. Nguyễn Thiếp được cho về quê quán.
1802. Vua Gia Long ra Bắc truy lùng vua Tây Sơn Cảnh Thịnh. Nguyễn Du
dẫn học trò, tráng đinh mang lương thực, bò, ngựa từ Quỳnh Hải đón
đường đi gặp vua Gia Long, đến huyện Phù Dung thì gặp vua, vua phong
ngay làm tri huyện Phù Dung. Việc này tương tự với Phi Tử đời Chiến
Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương được chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du
có danh hiệu là Phi Tử, Nguyễn Hành bài Đi Săn có nhắc đến danh hiệu
này.
1803. Làm Tri huyện được mấy tháng nhờ tài nói lưu loát ngôn ngữ
Trung Quốc trong thời gian đi giang hồ và tài năng ứng đối thi ca.
Nguyễn Du được thăng Tri phủ Thường Tín lên Lạng Sơn đặc trách tiếp sứ
sang phong vương cho vua Gia Long cùng Tri phủ Thượng Hồng Trần Quý
Chuyên. Tri phủ Thiên Trường Ngô Nguyên Viễn, Tri phủ Tiên Hưng Trần
Lưu. Thơ tống tiễn do Nguyễn Du viết.
1804. Xong việc ngoại giao tiếp sứ, Nguyễn Du trở về Thường Tín, vợ
mất để lại một con Nguyễn Tứ. Nguyễn Du cáo bệnh xin nghĩ một tháng về
quê. Nguyễn Du tìm về Cổ Nguyệt Đường mong nối lại duyên xưa thì Hồ Xuân
Hương đang làm lẽ Cai Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa ở Vĩnh Yên, nàng đau ốm
tâm sự như nàng Tiểu Thanh. Bên song cửa Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu
Thanh Ký gửi Hồ Xuân Hương và tự hỏi : Ba trăm năm lẽ nữa ai khóc người
phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh. Đó là lý do bài Độc Tiểu Thanh Ký
nằm cuối Thanh Hiên thi tập, và hai chữ tố như chỉ có nghĩa là người
phẩm hạnh cao quý như thế (như nàng Tiểu Thanh).
1805 Nguyễn Du được thăng Đông Các học sĩ, hàm ngũ phẩm, tước Du Đức
hầu vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Chức vụ dâng sách cho vua Gia Long
đọc mỗi ngày. Nguyễn Nể về quê bị Tri phủ Trần Văn Chiêu truy bức ông
uất ức mà chết.
1807 Làm giám khảo trường thi Hương, Hải Dương.
1808 Mùa thu, xin về quê nghỉ.
1809 Đầu năm được bổ làm Quan Cai Bạ (Trấn thủ) doanh Quảng Bình, một trong bốn doanh đất kinh kỳ, hàm tứ phẩm.
1812 Cuối năm Nguyễn Du xin về quê xây mộ cho anh Nguyễn Nể, được hai tháng thì có chiếu chỉ triệu vào kinh.
1813 Thăng Cần Chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc. viết Bắc Hành tạp lục.
1815 Thăng Hữu Tham tri Bộ Lễ hàm Tam phẩm.
1816 Kết thúc vụ án Nguyễn Văn Thuyên. Trung Quân thống lĩnh toàn
quân đội Nguyễn Văn Thành tự tử. Anh rễ Nguyễn Du, Tiến sĩ Vũ Trinh thầy
dạy Nguyễn Thuyên bị giam hậu và đày đi Quảng Nam 12 năm. Vụ án Binh bộ
Thượng Thư Đặng Trần Thường, vụ án Trần Phúc Hiển chồng Hồ Xuân Hương.
1818. Trần Phúc Hiển bị xử tử, Hiệp trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán, thi tướng Tao Đàn Cổ Nguyệt Đường chết, có lẽ tự tử.
1819 Được cử làm Đề Điệu Trường Thi Quảng Nam, Nguyễn Du dâng biểu cố từ được vua chuẩn y.
1820. Gia Long mất, Minh Mệnh lên ngôi cử Nguyễn Du làm Chánh sứ đi
báo tang và xin thụ phong; Chưa kịp đi thì bị bệnh dịch mất ngày 10
tháng 8 năm Canh Thìn tức ngày 16-9-1820. Ngô Thời Vị làm Chánh sứ thay
thế. Thi hài Nguyễn Du được an táng đồng Bầu Đá, xã An Ninh, huyện
Quảng Điền Thừa Thiên. Năm 1924 con là Nguyễn Ngũ cải táng đưa về làng
Tiên Điền.
ĐÍNH CHÁNH NHỮNG SƠ SÓT
Đọc sách anh Hoàng Khôi, tôi xin nhặt ra những sơ sót, và bổ túc thêm
những chi tiết, mong rằng anh sẽ chữa lại, mài dũa thêm viên ngọc quý
để trở thành một tác phẩm hoàn hảo tuyệt tác, nếu có thì giờ viết thành
kịch bản truyện phim cũng nên.
Trang 14, Trấn Sơn Nam thời Lê, đến đời Gia Long được chia làm Sơn
Nam Thượng đặt trị sở tại Châu Cầu. Sơn Nam Hạ đặt trị sở tại Nam Định.
Sang năm 1831 đời Minh Mạng chia Sơn Nam Thượng gồm hai tỉnh Hà Nội và
tỉnh Hưng Yên. Sơn Nam Hạ chia làm hai tỉnh Nam Định và Thái Bình.
Đời Gia Long, Bắc Thành có 11 trấn : gồm 5 nội trấn là Kinh Bắc, Sơn
Tây, Hải Dương, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ. 6 ngoại trấn là : Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hưng Hóa, Yên Quảng. Ngoài ra
có hai đạo Thanh Bình (Ninh Bình) và Hoà Bình và phủ Hoài Đức gồm Thăng
Long và vùng phụ cận. Do đó Ninh Bình và Thăng Long đời Gia Long về
trước, không thuộc về Sơn Nam.
Trang 18. Bà Đặng Thị Thuyết (không phải Tuyết) sinh mẫu Nguyễn Điều,
em bà chánh thất Đặng thị Dương. Bà Nguyễn Thị Xuân quê Bắc Ninh, sinh
mẫu NguyễnTrứ, Nguyễn Nghi thay vì bà Hồ Thị Ngạn ( là sinh mẫu Nguyễn
Nhưng, thay vì Nguyễn Nhung).
Mẹ Nguyễn Du là Trần Thị Tần, con người thuộc hạ làm chức Câu kế lo
việc kế toán, quản gia cho cụ Nguyễn Nghiễm, quê làng Hoa Thiều họ này
có hai người đỗ Tiến Sĩ, bà Tần là vợ thứ ba có con đông nhất (Nguyễn
Trụ, Nguyễn Nể, Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du, Nguyễn Ức) . Do đó tôi nghĩ
mẹ Nguyễn Du là người có thế lực trong gia đình, chứ không phải là mối
tình qua đường, số phận người hầu, con mọn như anh Hoàng Khôi viết ?
Theo phong tục ngày xưa bà chánh thất thường do cha mẹ hỏi cưới để làm
dâu phụng thờ cha mẹ, cai quản gia trang nguyên quán, bà thứ hai do bà
cả cưới cho chồng, thường là em hay họ hàng của mình để “làm bạn” cho
mình. Bà ba là người được chồng lựa chọn, theo chồng đi khắp các nơi
trấn nhậm và được chồng yêu thương nhất, có nhiều quyền hành nhất và có
con đông nhất. Cụ Nguyễn Nghiễm có tám bà vợ và 21 người con. Thường
các gia đình quan lớn ngày xưa, bà chánh thất giữ sổ sách kế toán và
tiền bạc cho một gia trang khoảng 50 người, vừa các bà, con cái người
hầu, người bảo vệ, tân khách, thầy dạy văn, dạy võ…. Trong trường hợp bà
cả quê mùa không biết tính toán mới có người làm câu kế.
Trang 30. Nguyễn Du không thể về Hải An, Quỳnh Hải học với cha vợ là
Đoàn Nguyễn Thục năm 1782, năm Nguyễn Du 16 tuổi vì ông Đoàn Nguyễn
Thục sinh năm 1718 và mất năm 1775. Thời gian 1780- 1782 Nguyễn Khản bị
phải vụ án Trịnh Tông, nên bị giam lỏng, chúa nghĩ tình bạn cũ tha không
giết, do đó Nguyễn Khản không thể cưới vợ cho em, người trụ cột trong
gia đình như thế, thì còn vui gì mà lấy vợ. Nguyễn Du về Hồng Lĩnh học
với chú là Nguyễn Trọng. Trong bài thơ Tặng Thực Đình năm 1794 có câu : La Thành nhất biệt thập niên thâm. Một biệt La Thành đã chục năm.
Nguyễn Du có bạn ở thành Nghệ An trước năm 1783, sau đó Nguyễn Du ra
thi Hương trường Sơn Nam, Nam Định, đỗ Tam Trường (đỗ trường thi, phú,
chiếu biểu và hỏng kỳ tứ trường thi văn sách). Năm 1783 Nguyễn Du không
thể vừa trấn đóng Thái Nguyên, vừa ở quê vợ Quỳnh Hải ?
Trang 98 bài biệt Nguyễn Đại Lang hai câu Tống quân quy cố khâu, Ngã diệc phù Giang Hán (Tiễn anh về quê cũ, Tôi sang sông Hán đây)
Nguyễn Du tiễn Nguyễn Đại Lang về quê cũ vùng Quế Lâm nơi cao sơn lưu
thủy, vùng Việt Đông nơi quê hương người Choáng, (Tráng) người Việt cổ
thời Việt Vương Câu Tiễn và Triệu Đà, ngày nay còn 15 triệu người vẫn
còn giữ tiếng nói. Và cho biết mình sẽ sang sông Hán để đi Trường An.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi dịch thành Tiễn anh về núi cũ, tôi cũng trẩy sang sông, bỏ sót mất địa danh Giang Hán.
Hai câu : Sinh tử giao tình tại, Tồn vong thổ tiết đồng cho biết Nguyễn Du có kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Đại Lang, cùng khởi nghĩa bị bắt và được tha.
Trang 109, 114,115 hai bài Sơn Thôn và Sơn Cư Mạn Hứng tả cảnh Vân Nam nơi non sâu lớp lớp, Trưởng giả còn ăn mặc theo nhà Hán, ở trong núi (lịch theo Tây Tạng) không theo lịch nhà Tần. Phạm Tú Châu dịch áo mũ người già và lịch năm trong túi không đúng. Ông Quách Tấn dịch câu Nam khứ Trường An thiên lý dư (Phía Nam ngàn dậm cách Trường An), thành Ngoảnh lại trời Nam khuất Đế thành không
đúng. Vì ông không nghĩ Vân Nam cách Trường An ngàn dậm. Nếu Trường An
là Thăng Long hay Phú Xuân thì Nguyễn Du không thể ở cách hơn ngàn dậm
phía Nam. Bài Thu Chí câu Tuyết ám cùng thôn hiểu giác ai (Tuyết xuống làng xa não tiếng tù) ông Phạm Khắc Khoan, Lê Thước dịch Cõi sớm làng xa tuyết phủ đầy,
thiếu tiếng tù nghe ai oán, não ruột và tù và là một nhạc khí thường
dùng ở Vân Nam. Cảnh tuyết này không thể ở vùng Quảng Tây được.
Trang 105, 106 bài Thôn dạ Nguyễn Du viết ở Hồng Lĩnh câu Niên niên kết đắc ngư tiều lữ – Ngư tiều là bạn quanh năm đó, Nguyễn Du đang đi giang hồ không thể kết bạn với ngư tiều quanh năm, bài Giang đầu tản bộ viết ở Quảng Bình câu Bất tài đa khủng tốc quan phi – Bất tài quan vẫn sợ đơn sai, không hợp với thời đi giang hồ, chưa làm quan.
Trang 111, 112 bài Pháo Đài: Nam Bắc xa thư khánh đại đồng – Nam Bắc mừng nay cuộc đại đồng,
thống nhất Nam Bắc sau Trịnh, Nguyễn phân tranh, trong Nam Trung Tạp
ngâm, Nguyễn Du làm lúc làm quan Cai Bạ (Trấn Thủ) ở doanh Quảng Bình,
chép vào cảnh lúc Nguyễn Du đi giang hồ ở Trung Quốc không đúng.
Trang 116 bài , Thu dạ II Nguyễn Du trả lời họa bài Thu Vũ của Hồ
Xuân Hương, Xuân Hương khóc khi nghe tin Nguyễn Du bị bệnh ba tháng cuối
năm ở Hồng Lĩnh (Xem Phạm Trọng Chánh. Đi tìm Cổ Nguyệt Đường và mối
tình Nguyễn Du – Hồ Xuân Hương site Vanhoanghean).
Trang 123 Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương nghìn lượt (Bài Phân Kinh
Thạch đài), vì thời bấy giờ, Lê Quý Đôn có viết quyển Kinh Kim Cương chú
giải, được trí thức Bắc Hà yêu chuộng, được nhà chùa Thăng Long khắc
bản in. Lê Quý Đôn nhà bác học, là một thần tượng thời bấy giờ, khi mất
được chúa Trịnh để tang bãi chầu ba ngày, việc hiếm có. Nguyễn Du tất có
bên mình quyển Kinh của Lê Quý Đôn chú giải. Trên bước đường giang hồ
đi Trung Quốc, Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương nghìn lượt, tức là ba năm,
ngày đi du lịch tối về một ngôi chùa trên đường đi tụng kinh làm công
quả, nhà chùa thết đãi món chay rau đậu. Đây là một chi tiết khá thú vị.
Trang 163, năm 1790, Nguyễn Du đọc Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân ở Hàng Châu, lúc đó Nguyễn Du mới 24 tuổi, chưa đến tuổi “tam
thập nhi lập”.
Trang 170, Nguyễn Nể có hai lần đi sứ. Lần thứ nhất năm 1789 sứ bộ
đầu tiên của Tây Sơn, Vũ Huy Tấn Chánh sứ, Nguyễn Nể làm Phó sứ. Vũ Huy
Tấn đi sứ lần thứ nhất trở về, lại ở trong sứ đoàn đi sứ lần thứ hai năm
1790. Theo học giả Thái Văn Kiểm, Nguyễn Nể đi sứ đến năm 1791 mới về,
(trong bài Nguyễn Du đi sứ, Việt Nam Gấm Hoa, Làng Văn Canada xb 1797 tr
101). Khi sứ thần nhà Thanh sang Thăng Long phong vương cùng năm, có cả
Nguyễn Nể và Đoàn Nguyễn Tuấn tiếp rước, Đoàn giới thiệu với các sứ
thần nhà Thanh: Quế Hiên Nguyễn Nể là đỉnh cao thi trận nước Nam.
Lần thứ hai năm 1795 làm Chánh Sứ (Hành Khánh sứ) sang mừng lễ vua Càn
Long truyền ngôi cho con là Gia Khánh. Có thể Nguyễn Nể có trong sứ bộ
năm 1790 do Phan Huy Ích làm Chánh sứ, có Đoàn Nguyễn Tuấn, đoàn có 158
người, có ông vua Quang Trung giả do Phạm Công Trị đóng vai và hoàng tử
Quang Thùy. Như thế Nguyễn Nể đi sứ ba lần chăng?
Nguyễn Công con Nguyễn Khản và Nguyễn Thiện con Nguyễn Điều có tham
gia Sùng Chính Viện của Nguyễn Thiếp. Nguyễn Nhưng, đậu Tứ Trường đời
Lê, đời Tây Sơn có ra làm Trấn Thủ Sơn Tây thay thế Nguyễn Công Tấn
thân phụ Nguyễn Công Trứ năm 1801. Nhà Nguyễn lên ông ở ẩn làm nghề
thuốc.
Trang 171 Hai bài thơ Đoàn Nguyễn Tuấn tựa : Chí Hoàng Châu
thích Nguyễn khế văn tự Yên Kinh hồi tẩu bút tặng chi. Đến Hoàng Châu
thì vừa vặn gặp người bạn văn chương họ Nguyễn từ Yên Kinh trở về bèn
phóng bút làm thơ tặng. Bài tựa chứng tỏ Nguyễn Du đã lên Yên Kinh
và trở về. Sự kiện vua Lê Chiêu Thống và các quan lại đi theo muốn nhà
Thanh làm áp lực để xin đất Thái Nguyên, Tuyên Quang mà không xin đất
Cao Bằng như nhà Mạc, chứng tỏ đã gặp cựu trấn thủ Thái Nguyên Nguyễn
Đăng Tiến.
Trang 178, Bài Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang, đặt Nguyễn Du chia tay cùng
Nguyễn Đại Lang tại Hoàng Châu không đúng vì có địa danh Liễu Cao Lâm.
Liễu Châu ở vùng rừng cao nguyên, nơi sản xuất gỗ nam mộc đóng hòm rất
tốt, giữ thi thể rất lâu (Trung Quốc có câu : sống ở Hàng Châu, cưới vợ Tô Châu, ăn ở Quảng Châu và chết ở Liễu Châu).
Từ Vân Nam vùng núi, về đến Liễu Châu vùng cao nguyên, đến Quế Lâm là
đồng bằng. Trong thơ Nguyễn Du, Tây phong thường ám chỉ quân Tây Sơn:
Vì quân Tây Sơn ra Bắc cho nên chúng ta lưu lạc nơi chốn rừng cao nguyên
Liễu Châu, Tây phong qui tụ Liễu rừng cao. Ông Trương Chính
trong Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn Học 1965, vì không nghĩ đó là địa
danh, nên cho rằng câu thơ không đúng cú pháp, ông chữa thành :Tây phong tiêu táp phất cao lâm, Gió Tây thổi qua ống tay áo phơ phất cành liễu. Ông Đào Duy Anh giữ nguyên nhưng dịch thành Rừng liễu ra về buổi gió Tây. Chữ ra về ngược lại với nghĩa chữ qui tụ.
Trang 181, Đoàn Nguyễn Thục mất năm 1775, 57 tuổi, năm 1790 Đoàn
Nguyễn Thị Huệ 16 tuổi, mồ cô cha lúc một tuổi, có thể con thứ thiếp,
được anh cả Đoàn Nguyễn Tuấn nuôi dưỡng và kết hôn cùng Nguyễn Du năm
1796, 21 tuổi.
Trang 214, cụ Đồ Diễn đã mất năm 1786, thọ 83 tuổi. Do đó năm 1790
-1793, ba năm mối tình Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, thì cụ Đồ Diễn không
còn nữa. Hồ Xuân Hương nếu sinh năm 1772 lúc đó đã 18 – 21 tuổi với tài
hay chữ có thể đã dạy trẻ học vỡ lòng. Văn bản Landes, Lê Quý chép
thường tả Hồ Xuân Hương đi đâu cũng có 5, 7 đứa hầu gái, có lẽ là học
trò. Làng Nghi Tàm sau khi cụ Đồ Diễn có Tử Minh tức Cả Tân học trò cụ
Đồ Diễn dạy học, Tử Minh mất 40 tuổi năm 1811, Hồ Xuân Hương sau mười
năm phong trần : Thập tải phong trần quán nhỉ linh, mười năm phong trần như ăn trộm bịt tai đi trộm chuông
(lấy lẽ Cai Tổng Cóc, trở về mở hiệu sách, rồi đi buôn, vì tình bất an
vùng Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ do loạn Đặng Trần Siêu, Võ Đình Lục
thường chặn đường cướp bóc các thương nhân, nàng thôi đi buôn). Làng
Nghi Tàm mời Xuân Hương thay Tử Minh dạy học. Học trò các lớp thi Hương
sang học với ông nghè Phạm Quý Thích. Nguyễn Thị Hinh tức Bà Huyện
Thanh Quan, sinh sống cùng làng Nghi Tàm, học với Hồ Xuân Hương sau đó
học với Tiến Sĩ Phạm Quý Thích cùng thời với Phương Đình Nguyễn Văn
Siêu.
Trang 234 : năm 1774 cụ Nguyễn Nghiễm cầm quân dẹp loạn vùng Hội An,
điều này không đúng. Đó là cuộc chiến lớn chấm dứt Trịnh Nguyễn phân
tranh sau hơn 200 năm. Nhân tại Phú Xuân, Trương Phúc Loan chuyên quyền,
Tây Sơn nổi dậy đánh phá chiếm từ Bình Định tới Diên Khánh. Chúa Trịnh
Sâm biết như vậy bèn sai đại tướng là Hoàng Ngũ Phúc, cùng Nguyễn Nghiễm
làm Tả Tướng quân đem thủy bộ 3 vạn quân cùng Hoàng Phùng Cơ, Hoàng
Đình Thể, Hoàng Đình Bảo vào đất Bố Chính để đánh họ Nguyễn, giả vào
đánh Trương Phúc Loan. Các quan ở Phú Xuân bèn bắt Phúc Loan đem nộp.
Nhà Trịnh thừa cơ chiếm lấy Phú Xuân, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem sắc phong
cho Nguyễn Nhạc trấn thủ đất Quảng Nam. Các chúa Nguyễn,Thái Thượng
Vương và Tân Chính Vương bị Nguyễn Huệ đuổi bắt và giết chết, chỉ còn
Nguyễn Ánh 17 tuổi chạy thoát. Trong trận này quân nhà Trịnh hàng ngàn
người bị bệnh dịch. Cụ Nguyễn Nghiễm cũng nhiễm bệnh đưa về quê quán
Tiên Điền dưỡng bệnh. Năm 1776 cụ mất tại quê nhà.
Trong tình hình đọc sách hiện tại trong nước và hải ngoại, mỗi người
Việt Nam đọc không đến một quyển sách một năm, các nhà xuất bản tại hải
ngoại chỉ sống nhờ sự hy sinh của tác giả, tự viết tự bỏ tiền in, không
kể gì lời lỗ. Sách gửi đi các nơi không hy vọng gì thu tiền lại. Trong
nước sách in được 1500 quyển như Nguyễn Du trên đường gió bụi anh Hoàng
Khôi là thuộc loại khá. Đáng cho chúng ta khuyến khích. Phải chăng vì
thiếu sách hay, các nhà văn ngày nay không đủ sức hấp dẫn lôi kéo người
đọc chăng. Nghĩ lại ngày xưa thời Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới, những năm
1930-1940 mỗi năm người đậu Tú Tài chỉ vài chục người, người biết chữ
quốc ngữ có là bao nhiêu trên 25 triệu dân thế mà sách đã tạo ra những
trào lưu văn học lớn mạnh. Ngày nay chúng ta có 90 triệu dân trong nước
và 4 triệu người Việt hải ngoại, mà tình hình sách vở còn thua các nước
nhược tiểu, nghĩ thật đáng buồn. Chúng ta không nâng cao được dân trí,
mà dân trí lại thụt lùi. Được một nhà văn như anh Hoàng Khôi, hy sinh
thức đêm thức hôm để viết sách, để mua vui một vài trống canh, tôi mừng
và mong có nhiều người như anh Hoàng Khôi. Đừng để các thế hệ mai sau
không còn biết viết văn, biết đọc mà chỉ còn biết bấm mấy câu vớ vẫn
trên điện thoại di động.
Paris 9-11-2013
Các bài viết liên quan:
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim,
Ngọc Phương Nam,
Thung dung,
Dạy và học,
Cây Lương thực,
Học mỗi ngày,
Danh nhân Việt,
KimTwitter,
KimFacebook,
KimYouTube,
Food Crops News,
CassavaViet,
foodcrops.vn